Trong thời điểm lịch sử từng có những xung đột đau thương, nhà văn, dịch giả Lady Borton đã chọn đứng về phía sự thật, phía những giá trị nhân văn. Những cuốn sách của bà không chỉ mang lại các góc nhìn chân thực về lịch sử mà còn là nhịp cầu hòa giải và tôn vinh tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường của nhân dân Việt Nam. Hơn nửa thế kỷ gắn bó với Việt Nam, đến nay ở tuổi 83, bà vẫn miệt mài cống hiến, viết sách, dịch thuật và làm cầu nối văn hóa giữa Việt Nam và thế giới. Tình yêu của bà dành cho Việt Nam như một biểu tượng của sự thủy chung, thấu hiểu, vượt qua ranh giới quốc gia, văn hóa và lịch sử.
“Thầy của tôi ở Việt Nam là tất cả mọi người"
Năm 1969, trong bối cảnh chiến tranh đang diễn ra vô cùng khốc liệt ở Việt Nam, bà đã có mặt ở Quảng Ngãi. Kỷ niệm nào khi đó vẫn còn ám ảnh bà đến tận hôm nay?
Tôi nhớ chuyến đi cùng với Keith, một người bạn của tôi. Keith chở tôi bằng xe máy đi dọc theo Quốc lộ 1. Lúc qua Quảng Ngãi, tôi thấy có rất nhiều lính Mỹ. Tôi khá cao, tóc ánh đỏ và xoăn tít, nên rất nổi bật. Một chiếc xe tải quân đội Mỹ chạy tới từ phía sau, ép chúng tôi ra lề đường, ngay sát cánh đồng nơi những người phụ nữ Việt Nam đang cấy lúa. Hai lính Mỹ nhảy xuống khỏi xe tải. Họ nã súng trường vào những phụ nữ đang cúi mình trên ruộng lúa. Tôi sững sờ. Không thốt nên lời. Keith, người đã từ chối làm lính trong quân đội Mỹ, bình tĩnh hơn. Anh đối mặt với các binh sĩ, yêu cầu họ dừng lại.
"Các anh đang làm gì vậy?" Keith chất vấn. "Chỉ tập luyện thôi," họ đáp. Quy tắc của quân đội Mỹ đối với binh sĩ là "giết bất cứ thứ gì chuyển động". Quy tắc đó đã gây ra hỗn loạn và đau thương cho người Việt, và nó để lại nỗi ám ảnh cho các cựu chiến binh Mỹ cũng như người dân Việt Nam cho đến tận hôm nay.
Trong tác phẩm "After Sorrow" (Phía sau nỗi buồn), bà khắc họa những người phụ nữ Việt Nam bình thường nhưng có sức mạnh và sự kiên cường phi thường. Bà có thể kể lại một kỷ niệm đáng nhớ khi gặp gỡ, trò chuyện với họ?
Tôi là người nước ngoài đầu tiên và trong nhiều năm là người duy nhất được phép sống giữa những người dân Việt Nam bình thường. Việc thu thập các câu chuyện trong After Sorrow kéo dài bảy năm. Ban đầu, tôi gần như chỉ ở tại gia cùng với người bạn nghiên cứu Việt Nam của tôi, Nguyễn Hạc Đạm Thư - một nhà báo, nhà văn giàu kinh nghiệm. Chúng tôi thực hiện các cuộc phỏng vấn. Sau một, hai năm, tôi bày tỏ rằng mình muốn gặp một người từng bị giam trong chuồng cọp ở nhà tù Côn Đảo. Một ngày nọ, chúng tôi đến Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Tiền Giang (nay là Đồng Tháp). Tôi nhớ mình đứng ở cửa ra vào, nhìn những phụ nữ trung niên ngồi kín hai hàng ghế trong hội trường. Ở cửa đối diện là một phụ nữ mặc quần lụa đen, áo trắng, với chiếc khăn rằn đỏ đặc trưng của đồng bằng sông Cửu Long. Tóc bà trắng tinh, nhưng làn da trẻ trung, dịu dàng và rụt rè. Bà tên là Thanh, đã bị giam trong chuồng cọp ba lần, tổng cộng 16 năm. Không có chồng, con hay người thân cận, bà sống trong một căn phòng nhỏ phía sau Hội Phụ nữ. Những người phụ nữ khác đều biết bà Thanh, nhưng họ chưa từng nghe bà kể câu chuyện của mình. Khi bà Thanh tạm dừng câu chuyện để nghỉ, những người khác bổ sung. Tất cả họ đều từng bị giam, được thả, trở lại hoạt động, bị bắt, lại bị giam và chu kỳ đó cứ tiếp diễn. Đó là nỗi đau chung và những người phụ nữ nghĩ mình cần phải làm việc chăm chỉ để vượt qua đói nghèo, xây dựng lại nhà cửa, lập trường học. Không có thời gian để chìm đắm trong mất mát, nhưng với họ, những người đã mất không bao giờ bị lãng quên.
Tôi tò mò muốn hỏi, liệu bà có kỷ niệm về một ngôi làng Việt Nam nào đó đã để lại dấu ấn sâu nặng, khiến bà cảm thấy trái tim mình thật sự thuộc về đất nước này?
Tôi nhớ đến ngôi nhà mà tôi ở tại xã Bàn Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang (cũ) trong những năm nghiên cứu viết "After Sorrow".
Ngôi nhà nằm bên một con rạch nhỏ chảy vào sông Tiền Giang. Trong chiến tranh chống Mỹ, những người cách mạng kiểm soát Bàn Long, nơi đây gần một căn cứ của Mỹ. Sau khi chất độc da cam phá hủy tất cả cây cối và thảm thực vật tầng thấp, những người hoạt động cách mạng sống dưới lòng đất. “Chúng tôi như chuột”, họ dí dỏm nói, “nhưng
chúng tôi thông minh hơn”.
Trời nóng đến mức chúng tôi luôn tụ tập trong căn phòng có mái tranh. Tôi nhớ bà chủ nhà, Nguyễn
Thị Hai Giâu (nguyên mẫu của Hai Sang trong "After Sorrow", nay đã qua đời- PV), khi đó ngồi trên chiếc giường gỗ, ngón chân nhẹ nhàng đu đưa một chiếc nôi treo từ trần nhà. Khi đứa bé thức giấc, Hai Giâu ôm đứa trẻ chừng chín tháng tuổi vào lòng. Bà đi quanh phòng, giới thiệu từng người. Trong đó, có cha của đứa trẻ, người đã từng cứu Hai Giâu trong những năm kháng chiến. Bà kể, khi đó là một liên lạc viên cho cách mạng, bà đã lẻn vào ấp chiến lược do quân đội Việt Nam cộng hòa (ARVN) kiểm soát. Bà bước vào lán của người liên lạc. Nhưng một lính ARVN đang ngồi trên giường. Lệnh truy nã Hai Giâu và tiền thưởng cho người bắt được bà tương đương với lương giáo viên trong 100 năm. Bỗng một cậu bé ba tuổi chạy đến ôm lấy bắp chân Hai Giâu và gọi to: “Mẹ!”. Cậu ôm chặt Hai Giâu cho đến khi lính ARVN rời đi.
“Không ai dạy cậu bé làm vậy”, Hai Giâu nói.
“Chẳng ai dạy tôi” - cậu bé năm xưa, giờ đã trở thành cha của đứa trẻ mà bà Hai Giâu đang bế trên tay nói- “Bọn trẻ chúng tôi biết ai là ai”.
Chúng tôi trò chuyện khi bóng chiều đổ dài và đứa trẻ được chuyền từ vòng tay này sang vòng tay khác. “Bà có biết không?” Hai Giâu nói - “Đây là tất cả những gì chúng tôi mong muốn”.
“Cách mạng Việt Nam không thể thành công nếu không có
Hồ Chí Minh”
Bà từng nói: “Chiến thắng của Việt Nam là chiến thắng của trí tuệ và toàn dân”. Bà có thể giải thích thêm về nhận định này và tại sao bà tin rằng tinh thần này vẫn còn phù hợp với ngày hôm nay?
Những người bạn Việt Nam lớn tuổi hơn tôi luôn nói rằng cách mạng Việt Nam không thể thành công nếu không có Hồ Chí Minh. Sự xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao quát nhiều lĩnh vực, nhưng có lẽ xuất sắc nhất là khả năng thu hút những người xuất sắc đến với sự nghiệp của mình, chọn người phù hợp nhất cho một nhiệm vụ cụ thể và đưa ra hướng dẫn rõ ràng. Ông là một chính trị gia sắc sảo với lối sống giản dị. Ông có thể tập hợp mọi người bằng cách sử dụng ngôn ngữ đơn giản, rõ ràng, lặp lại và dễ nhớ. Chúng ta đều đã gặp những người xuất sắc, nhưng thường sự xuất sắc của họ chỉ tỏa sáng trong một lĩnh vực. Hồ Chí Minh thì xuất sắc trong nhiều lĩnh vực: chính trị, ngoại giao, ngôn ngữ, văn học, chiến lược quân sự và danh sách này vẫn còn dài. Ông quan tâm đến suy nghĩ của người khác. Ông luôn luôn học hỏi.
Khi dịch các bài viết của Hồ Chí Minh trong "Việt Nam’s People’s War" (tạm dịch: Cuộc chiến tranh nhân dân của Việt Nam), tôi chọn các bức thư và bài viết mà Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cho những người bình thường: nông dân, công nhân, chiến sĩ, người già, trẻ em. Trong đó không có các bài phát biểu chính trị hay báo cáo tại các cuộc họp Đảng. Khi hoàn thành, tôi ngạc nhiên khi phát hiện rằng không một tài liệu nào trong số các bài viết dành cho người dân bình thường nhắc đến chủ nghĩa cộng sản hay Đảng. Tuy nhiên, nhiều tài liệu trong số đó kêu gọi người dân tham gia những Hiệp hội Cứu quốc. Đó chính là các tổ chức của Đảng và trọng tâm của Hồ Chủ tịch luôn là đoàn kết, độc lập và xây dựng cộng đồng địa phương và quốc gia. Đảng xây dựng đường lối. Các tổ chức của nhân dân tập hợp, đoàn kết mọi người. Sự đoàn kết này là yếu tố thiết yếu cho thành công của chiến tranh nhân dân ở Việt Nam.
Cùng với cuốn sách về Chủ tịch Hồ Chí Minh được bà gửi gắm nhiều tình cảm và tâm huyết, bà cũng đã dịch nhiều tác phẩm quan trọng của Việt Nam sang tiếng Anh, như hồi ký của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình và loạt sách về Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Điều gì đã thôi thúc bà mang những câu chuyện này đến với thế giới?
80 năm qua là một giai đoạn lịch sử đầy hấp dẫn. May mắn thay, tôi đã và vẫn đang quen biết nhiều người tham gia vào các vai trò lớn nhỏ trong lịch sử đó. Chúng ta - bao gồm cả người Mỹ và người Việt - có xu hướng đơn giản hóa lịch sử thành một vài cái tên. Rồi chúng ta bắt đầu mơ hồ. Điều này thôi thúc tôi tìm hiểu và dành thời gian để chú thích các tự truyện và hồi ký mà tôi đã và vẫn đang tiếp tục dịch. Với sự giúp đỡ của các đồng nghiệp Việt Nam, tôi nghiên cứu tìm hiểu từng người được nhắc đến trong các văn bản. Tôi đã làm việc chặt chẽ với ông Phạm Hồng Cư (Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, tên thật là Lê Đỗ Nguyên- PV) và con trai ông, Lê Đỗ Huy, trong việc dịch tác phẩm "Đại tướng Giáp: Tuổi thơ và thanh niên". Năm 1927, Võ Nguyên Giáp gia nhập Tân Việt Cách mạng đảng, đến năm 1929, ông cùng một số đồng chí cải tổ Tân Việt thành Đông Dương Cộng sản liên đoàn, một trong ba tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam và đến năm 1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp lại để chính thức thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc tổ chức Đảng thời kỳ đầu liên quan đến nhiều nhà hoạt động cách mạng. Mỗi khi câu chuyện nhắc đến một cái tên, Huy và tôi tìm kiếm cho đến khi tìm đủ thông tin để viết một tiểu sử ngắn. Sau đó, tôi tạo một chỉ mục. Khi cuốn sách tiếng Anh được xuất bản, ông Phạm Hồng Cư cầm kính lúp và đọc chỉ mục từ đầu đến cuối. Ông ngẩng đầu lên, nói: "Tôi không nhận ra tất cả những người này đều có trong cuốn tiểu sử".
Tròn 80 năm ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bà nhìn nhận hành trình của đất nước từ một quốc gia bị tàn phá bởi chiến tranh đến một quốc gia đang vươn lên trên trường quốc tế như thế nào?
Chiến tranh tiêu tốn nguồn lực của một quốc gia. Chỉ khi có hòa bình, một quốc gia mới có thể tái thiết và phát triển. Đó là trường hợp của Việt Nam, khi đổi mới và hòa bình khiến phát triển trở nên khả thi. Tuy nhiên, cuối những năm 1980 là thời kỳ quan trọng, khi nền kinh tế tăng trưởng vượt bậc nhờ đổi mới. Tôi đã chứng kiến một quán trà ven đường mở rộng thành bàn trà có trà và chuối, rồi thành quầy trà có trà, chuối và bánh quy từ Trung Quốc, rồi thành một quán phở tạm bợ, rồi thành một nhà hàng tạm bợ với vài ba món lựa chọn, rồi thành một nhà hàng bậc trung và cuối cùng là một nhà hàng sang trọng có khách sạn đi kèm. Tất cả điều này đã có trước năm 1990.
Ngay khi hòa bình đến, các hạn chế đối với người Việt khi giao tiếp với người nước ngoài giảm bớt. Tôi thấy mình có thể nói chuyện với bất kỳ ai trên đường phố mà không gây phiền toái cho họ. Nhiều người đến gần tôi, trò chuyện bình thường. Tôi cảm nhận được rất rõ sự thân thiện của người Việt Nam.
Trên bình diện quốc gia, Việt Nam có chính sách làm bạn với tất cả các nước. Tại Liên hợp quốc, các quốc gia trên thế giới đã công nhận vị thế của Việt Nam bằng cách hai lần bầu Việt Nam vào Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Vai trò lâu dài của Việt Nam trong việc thực hiện chính sách làm bạn với tất cả các quốc gia đã đặt Việt Nam vào vị trí vững chắc là một quốc gia có thể giúp hòa giải các xung đột trên thế giới.
Nhà văn Lady Borton trong một lần gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp và phu nhân. (Ảnh: NVCC)
Nhà văn Lady Borton trong một lần gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp và phu nhân. (Ảnh: NVCC)
Ở tuổi 83, bà vẫn không ngừng nghiên cứu, viết và đóng góp cho Việt Nam. Điều gì đã giúp bà duy trì ngọn lửa đam mê và tình yêu với đất nước này suốt hơn nửa thế kỷ?
Tôi không đặc biệt thông minh và không có trí nhớ sắc bén về chi tiết, nhưng tôi tò mò. Đôi khi, tôi cảm thấy công việc của mình giống như giải một câu đố ghép hình khổng lồ với một ngàn mảnh, và tất cả các mảnh, với nhiều hình dạng khác nhau, đều có cùng màu xanh của bầu trời. Tôi không thể hoàn thành toàn bộ câu đố, nhưng tôi thấy những mảnh kỳ lạ mà có thể người khác không thấy. Tôi ghép chúng lại. Với cách thức đó, tôi nhận thấy niềm vui của các đồng nghiệp Việt Nam khi tôi có thể nhận ra một mối liên hệ về lịch sử đất nước của họ mà họ chưa từng chú ý. Thí dụ, đó là cuốn "Việt Nam's People's War: Điện Biên Phủ and Beyond" (tạm dịch: Cuộc chiến tranh nhân dân của Việt Nam: Điện Biên Phủ và những điều bên ngoài). Trong đó đăng tải các bài viết được dịch từ năm 1945-1954 của Hồ Chí Minh với phần thông tin giới thiệu của tôi để độc giả hiểu rõ hơn bối cảnh. Tôi đã cho một đồng nghiệp tại Bảo tàng Hồ Chí Minh xem ghi chú năm câu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cho Hoàng tử Lào Souphanouvong (đồng chí Chính) vào ngày 22/3/1954, thời kỳ cao điểm của chiến dịch Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng ông đã đợi vài ngày để gặp “đồng chí Chính”, nhưng giờ có người khác đang đợi ông. Ông nói rằng ông đã ủy quyền tất cả các điểm thảo luận cho đồng chí Trường Chinh và Phạm Văn Đồng. Khi tôi cho đồng nghiệp tại Bảo tàng Hồ Chí Minh xem ghi chú này, cô ấy nói: “Ai quan trọng đến mức Bác Hồ không thể đợi?”. Cô ấy lấy xuống bản mới nhất của một cuốn sách dạng biên niên sử (Hồ Chí Minh- biên niên tiểu sử - PV) mà tôi không biết là có tồn tại. “Đây!”, cô ấy nói. “Bác Hồ đã đến Bắc Kinh và sau đó đến Moscow! Vào ngày 5 và 10/4, Người đã ở Moscow và gặp Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Molotov”.
Có bao nhiêu người trong chúng ta biết rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến Bắc Kinh và Moscow trong khi diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ? Tôi thực sự tò mò. Khi đi từ Việt Bắc đến tàu ở Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh hẳn đã cải trang thành một người Nùng nghèo khổ. Ông mặc cùng bộ đồ cải trang đó khi trở về. Điều đó có nghĩa là ông không mang theo tài liệu gì. Mọi thứ đều trong đầu ông. Tôi ước mình có thể đến thăm Kho lưu trữ Bộ Ngoại giao Nga. Tôi ước mình có thể đọc tiếng Nga. Liệu Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Molotov có thảo luận về Hội nghị Genève dự kiến khai mạc trong một tháng sau đó không?
Chúng ta đang sống trong một xã hội hiện đại, con người dường như sống nhanh hơn, gấp gáp hơn. Những khoảng thời gian lắng lại cho quá khứ, cho lịch sử dường như ít hơn. Có khi nào bà suy tư về điều này?
Internet và trí tuệ nhân tạo đưa chúng ta đến gần nhau hơn, nhưng đồng thời có thể phá hủy những gì đặc biệt và quý giá về sự độc đáo của mỗi cá nhân và cả sự tích lũy chung của những di sản, tinh thần dân tộc. Những hình ảnh, âm thanh thoáng qua, những thông tin ngắn hạn trên internet phá hủy khả năng tập trung của chúng ta - trong khi đây là yếu tố rất cần cho quá trình tư duy và sáng tạo. Chúng khiến chúng ta trở nên lười biếng. Chúng ta dễ bị lôi kéo, dễ bị thao túng và dễ bị dụ dỗ khỏi những gì thật sự quan trọng. Sự hấp hẫn từ điện thoại thông minh buộc chúng ta nói “có” bằng cách vuốt màn hình, nhưng chúng ta quên rằng “không” mới là chính là cách để chúng ta chọn giữ lại những thứ mình coi là thiết yếu, quan trọng nhất.
Xin cảm ơn bà về cuộc trò chuyện sâu sắc này!
