Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên động viên các chiến sĩ lái xe Tiểu đoàn xe 101 tại trọng điểm Văng Mu.
Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên động viên các chiến sĩ lái xe Tiểu đoàn xe 101 tại trọng điểm Văng Mu.

Cha, con và Tổ quốc

Trong phòng lưu niệm Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, có một góc trang trọng đặt di ảnh và kỷ vật của liệt sĩ Nguyễn Tiến Quân, người con của ông đã hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc.

Gương mặt người lính trẻ trong quân phục pháo binh hiện lên nghiêm nghị, ánh mắt sáng như vẫn dõi theo người cha kính yêu. Bức di ảnh ấy đã hé mở câu chuyện về hai thế hệ trong một gia đình, cùng tự nguyện dâng hiến, hy sinh vì Tổ quốc.

Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, vị tướng của Trường Sơn huyền thoại, tham gia cách mạng từ khi 15 tuổi, được kết nạp Đảng năm 16 tuổi, ông sớm trở thành hạt nhân trong các phong trào yêu nước, từ Mặt trận Dân chủ Đông Dương đến Cách mạng Tháng Tám.

Những năm tháng hoạt động bí mật trong vòng vây truy nã của thực dân Pháp, ông đã khẳng định bản lĩnh của một người chỉ huy can trường. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, với cương vị Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn, ông tổ chức lực lượng, xây dựng và phát triển con đường vận tải chiến lược bắc-nam thành một kỳ tích quân sự, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Sau ngày thống nhất, ông tiếp tục gánh vác nhiều trọng trách: Bộ trưởng Xây dựng, Bộ trưởng Giao thông Vận tải, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Ở cương vị nào, ông cũng để lại dấu ấn sâu đậm của một nhà lãnh đạo kiên định, tâm huyết, góp phần quan trọng trong sự nghiệp kiến thiết và phát triển đất nước sau chiến tranh.

Đồng chí Đồng Sỹ Nguyên là một vị tướng tài ba, một nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước có đức độ và tài năng, một người học trò ưu tú của Bác Hồ. Toàn bộ cuộc đời của đồng chí Đồng Sỹ Nguyên gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và của quân đội. Đồng chí đã có công lớn lao trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt đồng chí có công lớn đối với con đường chiến lược Trường Sơn-Đường Hồ Chí Minh...

Hà Nội, ngày 5 tháng 1 năm 2006

VÕ NGUYÊN GIÁP

Ở hậu phương, bà Ngọc Lan - vợ ông, một cán bộ quân đội, đã thay ông nuôi dạy sáu người con trưởng thành trong gian khó. Năm người con tiếp nối truyền thống gia đình lần lượt nhập ngũ. Đặc biệt, người con thứ tư Nguyễn Tiến Quân, từ nhỏ đã lựa chọn con đường binh nghiệp như một lẽ sống.

Năm 1970, vừa tốt nghiệp phổ thông và nhận giấy báo thi đại học, anh Quân giấu gia đình, viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Khi biết chuyện, ông Đồng Sỹ Nguyên không trách mắng, chỉ nhẹ nhàng nói: “Con đã chọn con đường này là phải chấp nhận gian khổ, kể cả hy sinh”. Rồi chính ông đưa con lên Trường Sĩ quan pháo binh ở Sơn Tây để nhập học. Sau tốt nghiệp, anh được điều về đơn vị pháo binh của Quân đoàn 1, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, tiến vào giải phóng Sài Gòn.

cha-con1.jpg
Gia đình Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên. Ảnh chụp tại nhà 30, phố Lý Nam Đế, Hà Nội, năm 1970.

Tháng 12/1976, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, sau đó làm Bộ trưởng Xây dựng. Trên cương vị mới, với tầm nhìn chiến lược, tư duy tổ chức sắc sảo, ông đã đặt nền móng cho công nghiệp hóa ngành xây dựng và đặc biệt quan tâm chính sách nhà ở cho người lao động. Ông nhiều lần nhấn mạnh: “Xây dựng không chỉ là bê-tông, gạch đá, mà là tạo dựng cuộc sống cho nhân dân”.

Đầu năm 1979, khi chiến tranh biên giới phía bắc bùng nổ, ông được điều trở lại quân đội, giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Thủ đô, trực tiếp chỉ huy xây dựng tuyến phòng thủ Hà Nội, sẵn sàng ứng phó với nguy cơ chiến sự lan rộng. Cùng thời điểm đó, Thượng úy Nguyễn Tiến Quân đang theo học lớp ngoại ngữ, chuẩn bị sang Cộng hòa Dân chủ Đức theo chương trình đào tạo sĩ quan chỉ huy. Nhưng nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, anh tình nguyện gác lại việc học, trở về đơn vị cùng đồng đội chiến đấu.

Ông Lê Văn Hùng, từng nhiều năm làm cần vụ cho Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, kể: “Một buổi sáng, tôi tình cờ nghe được cuộc trò chuyện giữa Trung tướng và bà Ngọc Lan về việc học của anh Quân. Bà Ngọc Lan nói: “Ba nói với Cục Nhà trường làm thủ tục cho con đi học đi. Con đã chiến đấu ở miền nam, được đơn vị chọn để đào tạo phục vụ lâu dài cho quân đội. Con đã cố gắng học và đã thi đỗ rồi”. Ông Đồng Sỹ Nguyên đáp lại nhẹ nhàng nhưng dứt khoát: “Con nó đi học về cũng để phục vụ quân đội, học ở đâu cũng không bằng thực tế ngoài chiến trường. Bây giờ quân đội đang rất cần những người như Quân. Hết chiến tranh con về đi học cũng được…”.

Không có bất kỳ đặc quyền nào dành cho người con của một vị tướng. Nguyễn Tiến Quân nhận nhiệm vụ chỉ huy tại Pháo đài Đồng Đăng (Lạng Sơn), một điểm nóng cách biên giới Việt-Trung chỉ hơn 5km, nơi tuyến đầu của mặt trận.

Tết năm đó, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên lên thăm con trai, mang theo vài bao thuốc lá và mấy ổ bánh mì, rồi dặn con chia đều cho anh em trong đơn vị. Đó là lần cuối cùng hai cha con gặp nhau. Chỉ ít ngày sau, ngày 17/2/1979, khi tiếng súng đầu tiên vang lên trên bầu trời biên giới, anh Quân hy sinh.

“Là một vị tướng trận mạc, ông thừa hiểu sự khốc liệt của chiến tranh. Với cương vị khi đó, ông hoàn toàn có thể can thiệp để con được chuyển về tuyến sau, hoặc trước đó tạo điều kiện để anh Quân tiếp tục đi học ở nước ngoài. Nhưng ông đã không làm vậy. Mỗi khi nhớ lại, lòng tôi vẫn dâng trào xúc động", ông Hùng nói.

cha-con2.jpg
Di ảnh liệt sĩ Nguyễn Tiến Quân.

Ông Hùng nhớ lại, hôm đó, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên đang chủ trì một cuộc họp quan trọng tại Bộ Xây dựng. Nhận tin con trai hy sinh ngay trong cuộc họp, nhưng ông vẫn điềm tĩnh, điều hành xong công việc rồi lặng lẽ trở về nhà. Ông còn động viên vợ và mọi người trong gia đình hãy tự hào vì sự hy sinh của con mình để bảo vệ bình yên cho Tổ quốc.

Kể từ đó, trong phòng ngủ của Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên luôn có bức di ảnh con trai với gương mặt sáng, nụ cười hồn nhiên, trong bộ quân phục pháo binh. “Đôi khi, tôi thấy ông ngồi lặng rất lâu trước di ảnh. Có lẽ vết thương lòng đó không bao giờ lành, nhưng vượt lên tất cả, ông vẫn luôn tự hào về người con trai dũng cảm của mình”- ông Hùng nói.

Khi anh Quân hy sinh, người anh cả Nguyễn Sỹ Hưng đang học ở Liên Xô. Nhận tin dữ, không kìm lòng được, ông đã vào phòng vệ sinh và khóc. Năm 1981, ông Hưng cùng gia đình trở lại chiến trường xưa đưa hài cốt em trai về Hà Nội. Tại đây, đồng đội cũ kể lại đêm cuối cùng của người chỉ huy trẻ tuổi.

Ngày đầu tiên quân địch ồ ạt tấn công, Đại đội trưởng Nguyễn Tiến Quân phát hiện một số cứ điểm tập kết lực lượng và pháo binh của đối phương. Anh lên phương án chiến đấu nhưng thiếu bản đồ tác chiến, nên đã cùng một chiến sĩ về sở chỉ huy tiểu đoàn để lấy bản đồ. Trên đường trở lại, người lính đi cùng sơ ý bật đèn pin làm lộ vị trí, khiến cả hai bị phục kích. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, anh Quân kịp nhét tấm bản đồ vào ủng và ném xuống khe suối để tài liệu không rơi vào tay địch.

Nguyễn Tiến Quân đã dâng trọn tuổi xuân cho Tổ quốc, trở thành biểu tượng của lớp thanh niên sẵn sàng gác lại ước mơ riêng vì nghĩa nước. Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên đã sống trọn một đời tận hiến, là hiện thân của một thế hệ kiên trung, luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.

Hai ngày sau, đơn vị mở đường máu đánh vào cứ điểm của địch, đưa thi thể các anh về an táng. Phút tiễn biệt, cả đơn vị bồng súng, bắn ba loạt đạn tiễn đưa người chỉ huy dũng cảm. Liệt sĩ Nguyễn Tiến Quân được an táng trên một ngọn đồi, nơi thấm máu anh và đồng đội. “Khi cất bốc hài cốt, trong người em tôi vẫn còn nguyên đầu đạn của quân xâm lược”, ông Hưng xúc động nói.

Nguyễn Tiến Quân đã dâng trọn tuổi xuân cho Tổ quốc, trở thành biểu tượng của lớp thanh niên sẵn sàng gác lại ước mơ riêng vì nghĩa nước. Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên đã sống trọn một đời tận hiến, là hiện thân của một thế hệ kiên trung, luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Họ không chỉ để lại bài học về lòng yêu nước, mà còn trao truyền cho thế hệ hôm nay một giá trị tinh thần sâu sắc: Phụng sự Tổ quốc là lẽ sống cao đẹp nhất.

Có thể bạn quan tâm

Các khối quần chúng trong ngày Độc lập.

Tết Độc lập trong ký ức người Hà Nội

Những con người từng là nhân chứng của lịch sử, của ngày Tết độc lập năm ấy rồi sẽ trở thành thiên cổ. Nhưng những ký ức về mùa thu Tháng Tám, về ngày Lễ Tuyên ngôn độc lập sẽ mãi được giữ gìn, được lan tỏa bằng tình yêu của những con người sống trên mảnh đất Thủ đô nghìn năm văn hiến này.

Suối Lê Nin, Pác Bó, xã Trường Hà (mới), tỉnh Cao Bằng.

Rừng xưa ôm bóng Người

Đời sống nhân dân ở thôn Pác Bó (Cao Bằng), nơi Bác Hồ trở về xây dựng căn cứ địa cách mạng sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, và An toàn khu Tân Trào (Tuyên Quang) đã được cải thiện rõ nét.

Khối đội hình Quân đội nhân dân Việt Nam diễu binh tại Quảng trường Đỏ. (Ảnh: AP)

Điều quý giá nhất là sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc!

"Cơn mưa chiều chợt xả nước xuống thành phố oi bức tạo cảm giác mát mẻ. Thành phố đã lên đèn lung linh bên dòng sông Sài Gòn, không hình dung nổi mấy chục năm trước, nơi đây đã đi qua chiến tranh ác liệt với bao máu xương của những người yêu nước đã ngã xuống để con cháu hôm nay được hưởng thái bình".

Các chiến sĩ tiêu binh danh dự cài huy chương trên Quân kỳ quyết thắng. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Tháng Tám, dưới Quân kỳ...

Khoảng sân cháy nắng. Sáu chiến sĩ mặt đỏ gay, nhưng vẫn giữ nét nghiêm trang hướng về phía trước. Lưng đầm đìa mồ hôi, nắm chắc cán Quân kỳ trong tay, Binh nhất Trương Bảo Lượng hô vang: “Nghiêm. Đi đều bước. Nhìn bên phải, chào!”. Giậm mạnh chân, cả tổ bắt đầu di chuyển.

Ban Tổ chức “Ngày Độc lập”, họp mặt ngày 28/8/1995 tại số 47 Hàng Quạt (Hà Nội). (Ảnh: NGUYỄN ĐÌNH TOÁN)

Hiện ra trên con đường tìm lại...

Chúng tôi may mắn gặp được hai người thế hệ sau gần nhất với những nhân vật lịch sử trong ngày Lễ Quốc khánh trọng đại năm xưa. Đó là cựu phóng viên nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán (sinh năm 1947) và họa sĩ-nhà điêu khắc Lê Lai (sinh năm 1956) - con rể út của cụ Bùi Trang Chước (1915-1992) - tác giả chính của mẫu Quốc huy Việt Nam.

Chính phủ của quốc dân đồng bào

Chính phủ của quốc dân đồng bào

Chính phủ lâm thời ra đời từ cuộc Tổng khởi nghĩa vang dội, mang lại quyền lợi nhân dân chưa từng được hưởng và đã thực hiện những nhiệm vụ cấp bách giữ vững nền độc lập, cũng như lâu dài kiến thiết quốc gia. Chính phủ lâm thời hợp lòng dân, được toàn dân ủng hộ, bảo vệ.

Nhân dân Hà Nội đón mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị được giới thiệu ứng cử Đại biểu Quốc hội. Hà Nội, ngày 5/1/1946. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh)

Tưng bừng Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên

Lời hiệu triệu của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam ngày 6/1/1951 trong dịp kỷ niệm ngày Tổng tuyển cử, đã tái hiện phần nào bầu không khí những ngày trọng đại đầu năm 1946.

Thời cơ cho hôm nay

Thời cơ cho hôm nay

Mùa thu nay khác rồi, câu thơ trong bài "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi lại ngân rung trong tôi những ngày Tháng Tám. Ấy là Tháng Tám của mùa thu xanh thắm, trời trong, mây nõn, như đợi chờ, như hẹn ước.

Hồ Chí Minh và Tuyên ngôn Độc lập

Hồ Chí Minh và Tuyên ngôn Độc lập

Với những giá trị cốt lõi về quyền dân tộc và quyền con người, bản Tuyên ngôn Độc lập là sự kết tinh cao cả những giá trị nhân văn của nhân loại.

Nói "không" là cách giữ lại những điều quan trọng nhất!

Nói "không" là cách giữ lại những điều quan trọng nhất!

Trong thời điểm lịch sử từng có những xung đột đau thương, nhà văn, dịch giả Lady Borton đã chọn đứng về phía sự thật, phía những giá trị nhân văn. Những cuốn sách của bà không chỉ mang lại các góc nhìn chân thực về lịch sử mà còn là nhịp cầu hòa giải và tôn vinh tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường của nhân dân Việt Nam. 

Góc khuất của những huyền thoại

Góc khuất của những huyền thoại

Hệ thống bảo tàng Biệt động Sài Gòn-Gia Định có tới 11 điểm dừng chân khác nhau và còn tiếp tục tăng thêm nữa, bởi gia đình Anh hùng Lực lượng vũ trang Trần Văn Lai vẫn đi mua và khôi phục lại những địa chỉ từng là cơ sở cách mạng xưa...

Những cô gái ba đảm đang quạt thóc vàng gửi ra tiền tuyến ở Vũ Thư, Thái Bình, năm 1967. (Ảnh: Mầu Hoàng Thiết)

Trên chặng đường "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc"

Kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến năm 1975, đất nước đã trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đó là cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, vừa chiến đấu giữ độc lập dân tộc, vừa xây dựng chế độ xã hội mới.

Từ một niềm tin bất diệt

Từ một niềm tin bất diệt

“Đoàn quân Việt Nam đi chung lòng cứu quốc, bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa, cờ in máu chiến thắng mang hồn nước… /Đoàn quân Việt Nam đi, sao vàng phấp phới…”. Văn Cao viết lời Tiến quân ca khi ông vừa qua tuổi 21, chưa từng tận mắt thấy lá cờ đỏ sao vàng; tất cả chỉ là từ trí tưởng tượng của ông.