Nhân dân Hà Nội đón mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị được giới thiệu ứng cử Đại biểu Quốc hội. Hà Nội, ngày 5/1/1946. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Nhân dân Hà Nội đón mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị được giới thiệu ứng cử Đại biểu Quốc hội. Hà Nội, ngày 5/1/1946. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh)

Tưng bừng Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên

Lời hiệu triệu của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam ngày 6/1/1951 trong dịp kỷ niệm ngày Tổng tuyển cử, đã tái hiện phần nào bầu không khí những ngày trọng đại đầu năm 1946.

Hôm nay toàn quốc chúng ta làm lễ kỷ niệm ngày vĩ đại của dân tộc: ngày Tổng tuyển cử. Ngày 6/1/1946 là ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt trai gái, giàu nghèo, tín ngưỡng và chính kiến đã trực tiếp chọn lựa những người thay mặt cho mình để xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nước của nhân dân, bằng cách thảo một bản Hiến pháp dân chủ, và hơn nữa, để tổ chức một chính quyền dân chủ nhân dân, mà nhiệm vụ của nó là chỉ đạo mọi việc nội trị và ngoại giao.

--------------------

Những bước chuẩn bị cho ngày hội non sông

Chưa đầy 1 tuần sau thời khắc huy hoàng, buổi chiều ngày 2/9/1945, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành sắc lệnh số 14 ngày 8/9/1945 nêu rõ: Sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc dân đại hội và nhấn mạnh: “Tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền tuyển cử và ứng cử, trừ những người đã bị tước mất công quyền và những người trí óc không bình thường”. Để đốc thúc các nhiệm vụ, tiến tới Tổng tuyển cử, Chính phủ Lâm thời đã khẩn trương ra các sắc lệnh tiếp theo, phân công các phần việc cho từng cá nhân, từng đầu mối.

tung-bung-01.jpg

Ngày 20/9/1945, Sắc lệnh số 34 công bố: “Lập một Ủy ban dự thảo và đệ trình Quốc hội một bản Hiến pháp cho Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Ban dự thảo soạn Hiến pháp gồm 7 người, gồm: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiền, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu. Sắc lệnh số 39, để 9 nhân vật: Trần Huy Liệu, Vũ Đình Hòe, Cù Huy Cận, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Hữu Đặng, Lê Văn Giang, Nguyễn Văn Chức, Nguyễn Hữu Tiêu, cô Tám Kinh trở thành thành viên: “Ủy ban dự thảo thể lệ Tổng tuyển cử”.

Sắc lệnh 51 ngày 17/10/1945 không chỉ ấn định thể lệ cuộc Tổng tuyển cử, đưa ra những điều khoản quan trọng như: “Được tự do vận động những cuộc vận động không được trái với nền dân chủ cộng hòa”; “Người ứng cử được tự do ứng cử nơi mình chọn lấy nhưng chỉ một nơi ấy thôi”; “Cử tri sẽ bầu bằng phiếu kín”..., mà còn mở đường cho chế độ phổ thông đầu phiếu bầu cử trực tiếp, vẫn được duy trì đến tận ngày nay.

Những ngày tháng vừa bước ra khỏi đêm dài nô lệ, đất nước còn nghèo, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, hiện trạng đường sá, giao thông đi lại vất vả bội phần, việc di chuyển từ địa phương này sang địa phương khác phải mất nhiều thời gian, thế nên Sắc lệnh 71 ngày 2/12/1945 thể hiện rõ tinh thần nhân văn, dân chủ khi dành riêng để bổ khuyết điều 11, chương 5 của Sắc lệnh 51, góp phần hạn chế sự bất tiện mà những người ứng cử có thể gặp phải: Vì sự giao thông hiện thời khó khăn, người ứng cử có thể gửi đơn ứng cử ngay cho Ủy ban nhân dân nơi mình trú ngụ, và yêu cầu Ủy ban nhân dân ấy điện cho Ủy ban nhân dân nơi mình xin ứng cử. Đơn và giấy chứng nhận đủ điều kiện sẽ do Ủy ban nhân dân nơi trú ngụ chuyển sau cho Ủy ban nhân dân nơi ứng cử”.

Cuối cùng sau nhiều lần phải dời ngày, “Cuộc Tổng tuyển cử” được thống nhất tổ chức vào: “chủ nhật 6/1/1946”. Từ đó, ngày 6/1/1946 chính thức trở thành Ngày hội non sông, ngày những người dân Việt Nam - những công dân tự do của nước Việt Nam độc lập lần đầu tiên được cầm lá phiếu cử tri, bầu ra những người đại diện cho quyền lợi của mình.

33-21-41-32.jpg
43-21-41-34.jpg
123-21-52-51.jpg
13-21-41-17.jpg

Náo nức đi làm nghĩa vụ công dân

Sáng sớm chủ nhật 6/1/1946, đường phố Thủ đô tấp nập người tỏa về các điểm bầu cử. Nhân dân Hà Nội đã rất vinh dự, tự hào vì có Chủ tịch Hồ Chí Minh ứng cử tại địa phương mình. Trước đó, bà con ngoại thành Hà Nội công bố một bản kiến nghị: “Yêu cầu Cụ Hồ Chí Minh được miễn phải ứng cử trong cuộc Tổng tuyển cử sắp tới vì Cụ đã được toàn dân suy tôn làm Chủ tịch vĩnh viễn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

Thế nhưng, trên số báo Cứu Quốc 118, ngày 15/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư, phúc đáp tình cảm của nhân dân, từ chối lời đề nghị ấy: “Tôi rất cảm động thấy toàn thể đồng bào ngoại thành Hà Nội đã có lòng quá yêu tôi, mà quyết nghị tôi không phải ứng cử trong kỳ Tổng tuyển cử sắp tới. Nhưng tôi là một công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nên không thể vượt qua thể lệ Tổng tuyển cử đã định. Tôi đã ứng cử ở thành phố Hà Nội, nên không thể ra ứng cử ở nơi nào khác nữa”.

Trong suốt thời gian chuẩn bị cho ngày Tổng tuyển cử đầu tiên, nhân dân đã nỗ lực thể hiện quyền và ý thức của mình bằng những hành động thiết thực: tham gia học chữ quốc ngữ, tiêu diệt giặc dốt cốt sao: “biết chữ để cầm lá phiếu thực hiện quyền công dân”. Các phố xá, thôn xóm râm ran tiếng nói cười, tranh luận..., cốt sao tìm được điểm mạnh, điểm yếu của các ứng cử viên. Theo Tài liệu “Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946-1960” do Văn phòng Quốc hội nghiên cứu, biên soạn (NXB Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1994), nhiều người có tài, có đức xung phong ra ứng cử hoặc được quần chúng giới thiệu ra ứng cử.

Trung ương Đảng chủ trương: phải đưa những người đã ở trong Ủy ban nhân dân có năng lực hành chính ra ứng cử, và giới thiệu những thân hào có tài, có đức ra ứng cử và cùng đứng chung một sổ quốc gia liên hiệp với các người ứng cử của Việt Minh

Danh sách các cử tri và ứng cử viên được hoàn thành và niêm yết công khai. Quần chúng sôi nổi trao đổi, tranh luận, chất vấn nhằm lựa chọn được những người xứng đáng nhất làm đại diện của mình, hạn chế tới mức thấp nhất những phần tử cơ hội lợi dụng dịp Tổng tuyển cử để tranh giành quyền chức. Trung ương Đảng chủ trương: phải đưa những người đã ở trong Ủy ban nhân dân có năng lực hành chính ra ứng cử, và giới thiệu những thân hào có tài, có đức ra ứng cử và cùng đứng chung một sổ quốc gia liên hiệp với các người ứng cử của Việt Minh.

Từ Hà Nội tới Nam Định, Hải Phòng, các tỉnh Trung Bộ, đặc biệt các tỉnh Nam Bộ..., cuộc bầu cử đã diễn ra trong sự đồng lòng hưởng ứng của nhân dân. Các tỉnh, thành phố trên cả nước thời điểm ấy, đều có số lượng công dân tham gia bỏ phiếu cao và rất cao, có nơi tới 95%. Cũng theo ghi nhận của “Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946- 1960”: “Hàng chục vạn cử tri Thủ đô đi làm nghĩa vụ công dân. Cuộc bỏ phiếu diễn ra rất nhanh, tấp nập nhất từ 7 giờ đến 10 giờ sáng. Có nơi mới đến 11 giờ, trong số ngót 2.000 cử tri, đã có tới gần 1.500 người đi bỏ phiếu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng hàng chục vạn cử tri đi làm nghĩa vụ công dân.

Tại Hà Nội, Người đã đi bầu đại biểu ở phòng bỏ phiếu đặt tại nhà số 10 phố Hàng Vôi. Sau đó, Người còn đến thăm một số phòng bỏ phiếu ở các phố Hàng Bạc, Hàng Gai, Hàng Trống, Thụy Khuê, làng Hồ Khẩu và Ô Đống Mác. Có những cụ già 70, 80 tuổi được con cháu cõng đi bỏ phiếu, nhiều người mù nhờ người nhà dẫn đến tận hòm phiếu để tự tay mình làm nhiệm vụ công dân”. Nhiều hình ảnh lưu truyền đến ngày nay, ghi lại cảnh tượng thiếu nhi tưng bừng xuống đường cổ động bầu cử, thí dụ trên phố Mai Hắc Đế: trống ếch rộn ràng, quần áo chỉnh tề, tươi rói những gương mặt măng tơ, rạng ngời, đại diện xứng đáng cho tương lai xán lạn của dân tộc Việt Nam.

23-21-41-22.jpg
Quang cảnh buổi khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá I, ngày 2/3/1946. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong bối cảnh vô cùng phức tạp, chính quyền non trẻ luôn ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”, “thù trong giặc ngoài”, các thế lực chống phá tạo đủ mọi cớ để phá hoại Ngày hội non sông, phá hoại nền độc lập vừa giành được... đã là minh chứng rõ nhất thể hiện niềm tin, tình yêu của nhân dân Việt Nam với Chủ tịch Hồ Chí Minh, với Việt Minh mà nòng cốt là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó cũng là biểu tượng của tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập, tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được kết tinh bằng hành trình hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Có thể bạn quan tâm

Các khối quần chúng trong ngày Độc lập.

Tết Độc lập trong ký ức người Hà Nội

Những con người từng là nhân chứng của lịch sử, của ngày Tết độc lập năm ấy rồi sẽ trở thành thiên cổ. Nhưng những ký ức về mùa thu Tháng Tám, về ngày Lễ Tuyên ngôn độc lập sẽ mãi được giữ gìn, được lan tỏa bằng tình yêu của những con người sống trên mảnh đất Thủ đô nghìn năm văn hiến này.

Suối Lê Nin, Pác Bó, xã Trường Hà (mới), tỉnh Cao Bằng.

Rừng xưa ôm bóng Người

Đời sống nhân dân ở thôn Pác Bó (Cao Bằng), nơi Bác Hồ trở về xây dựng căn cứ địa cách mạng sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, và An toàn khu Tân Trào (Tuyên Quang) đã được cải thiện rõ nét.

Khối đội hình Quân đội nhân dân Việt Nam diễu binh tại Quảng trường Đỏ. (Ảnh: AP)

Điều quý giá nhất là sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc!

"Cơn mưa chiều chợt xả nước xuống thành phố oi bức tạo cảm giác mát mẻ. Thành phố đã lên đèn lung linh bên dòng sông Sài Gòn, không hình dung nổi mấy chục năm trước, nơi đây đã đi qua chiến tranh ác liệt với bao máu xương của những người yêu nước đã ngã xuống để con cháu hôm nay được hưởng thái bình".

Các chiến sĩ tiêu binh danh dự cài huy chương trên Quân kỳ quyết thắng. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Tháng Tám, dưới Quân kỳ...

Khoảng sân cháy nắng. Sáu chiến sĩ mặt đỏ gay, nhưng vẫn giữ nét nghiêm trang hướng về phía trước. Lưng đầm đìa mồ hôi, nắm chắc cán Quân kỳ trong tay, Binh nhất Trương Bảo Lượng hô vang: “Nghiêm. Đi đều bước. Nhìn bên phải, chào!”. Giậm mạnh chân, cả tổ bắt đầu di chuyển.

Ban Tổ chức “Ngày Độc lập”, họp mặt ngày 28/8/1995 tại số 47 Hàng Quạt (Hà Nội). (Ảnh: NGUYỄN ĐÌNH TOÁN)

Hiện ra trên con đường tìm lại...

Chúng tôi may mắn gặp được hai người thế hệ sau gần nhất với những nhân vật lịch sử trong ngày Lễ Quốc khánh trọng đại năm xưa. Đó là cựu phóng viên nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán (sinh năm 1947) và họa sĩ-nhà điêu khắc Lê Lai (sinh năm 1956) - con rể út của cụ Bùi Trang Chước (1915-1992) - tác giả chính của mẫu Quốc huy Việt Nam.

Chính phủ của quốc dân đồng bào

Chính phủ của quốc dân đồng bào

Chính phủ lâm thời ra đời từ cuộc Tổng khởi nghĩa vang dội, mang lại quyền lợi nhân dân chưa từng được hưởng và đã thực hiện những nhiệm vụ cấp bách giữ vững nền độc lập, cũng như lâu dài kiến thiết quốc gia. Chính phủ lâm thời hợp lòng dân, được toàn dân ủng hộ, bảo vệ.

Thời cơ cho hôm nay

Thời cơ cho hôm nay

Mùa thu nay khác rồi, câu thơ trong bài "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi lại ngân rung trong tôi những ngày Tháng Tám. Ấy là Tháng Tám của mùa thu xanh thắm, trời trong, mây nõn, như đợi chờ, như hẹn ước.

Hồ Chí Minh và Tuyên ngôn Độc lập

Hồ Chí Minh và Tuyên ngôn Độc lập

Với những giá trị cốt lõi về quyền dân tộc và quyền con người, bản Tuyên ngôn Độc lập là sự kết tinh cao cả những giá trị nhân văn của nhân loại.

Nói "không" là cách giữ lại những điều quan trọng nhất!

Nói "không" là cách giữ lại những điều quan trọng nhất!

Trong thời điểm lịch sử từng có những xung đột đau thương, nhà văn, dịch giả Lady Borton đã chọn đứng về phía sự thật, phía những giá trị nhân văn. Những cuốn sách của bà không chỉ mang lại các góc nhìn chân thực về lịch sử mà còn là nhịp cầu hòa giải và tôn vinh tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường của nhân dân Việt Nam. 

Góc khuất của những huyền thoại

Góc khuất của những huyền thoại

Hệ thống bảo tàng Biệt động Sài Gòn-Gia Định có tới 11 điểm dừng chân khác nhau và còn tiếp tục tăng thêm nữa, bởi gia đình Anh hùng Lực lượng vũ trang Trần Văn Lai vẫn đi mua và khôi phục lại những địa chỉ từng là cơ sở cách mạng xưa...

Những cô gái ba đảm đang quạt thóc vàng gửi ra tiền tuyến ở Vũ Thư, Thái Bình, năm 1967. (Ảnh: Mầu Hoàng Thiết)

Trên chặng đường "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc"

Kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến năm 1975, đất nước đã trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đó là cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, vừa chiến đấu giữ độc lập dân tộc, vừa xây dựng chế độ xã hội mới.

Từ một niềm tin bất diệt

Từ một niềm tin bất diệt

“Đoàn quân Việt Nam đi chung lòng cứu quốc, bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa, cờ in máu chiến thắng mang hồn nước… /Đoàn quân Việt Nam đi, sao vàng phấp phới…”. Văn Cao viết lời Tiến quân ca khi ông vừa qua tuổi 21, chưa từng tận mắt thấy lá cờ đỏ sao vàng; tất cả chỉ là từ trí tưởng tượng của ông.