Tháng Bảy qua nghĩa trang Hàm Rồng

Tháng Bảy, nắng đã thôi chát chúa những ban trưa còn mang tên mùa hạ, mưa bắt đầu trầm tư, lê thê lười biếng đổ dài lên ngày. Tôi ôm bó huệ trắng, thư thả men bờ sông Mã về Nam Ngạn vào một buổi chiều dịu dàng nắng, phóng khoáng gió và bầu trời mang vẻ ưu tư rất riêng.

Tháng Bảy qua nghĩa trang Hàm Rồng

Nghĩa trang liệt sĩ Hàm Rồng nằm trên phường Nam Ngạn, thành phố Thanh Hóa. Rời khỏi quốc lộ gió bụi ồn ào chỉ chừng hai ki-lô-mét, mà đến đây tôi bị bất ngờ như bắt gặp một miền khác, khác hẳn những gì đã thuộc về thành thị. Sự bình yên, thanh tịnh bắt đầu từ con đường bê-tông sạch sẽ ngăn ngắn, nối đường chính của phường với cổng nghĩa trang. Hai bên lối đi là những cây xà cừ vạm vỡ, xanh rợp lá, thân bền bỉ vững chãi phếch mầu, thẳng tắp nối nhau đứng đón gió từ cánh đồng ùa về vi vút. Có mấy chiếc võng được mắc dưới tán râm, vài cụ già, đôi ba em bé thư thả nằm đó để hưởng cái ý vị ngọt lành của trời đất, như được ban riêng cho nơi này.

Người quản trang tên Nguyễn Châu Long niềm nở tiếp tôi bằng sự nhiệt thành của tấm lòng hiếu khách, của thói quen và niềm hân hoan khi được đón bất kỳ ai về đây thắp viếng hương hoa cho đồng đội mình. Chẳng bao xa, cũng không gian đó, chỉ ngoài kia thôi, cách vài trăm mét đã là quán xá, đã là san sát nhà tầng sầm uất, thế mà bước chân vào đây, cái sự tĩnh lặng yên ả thanh đãng cứ trong veo đến lạ lùng.

Trong lúc đợi người quản trang châm hương, tôi đứng lặng nép bó huệ vào lòng, ngước nhìn tượng đài uy nghi sừng sững và cả ngàn ngôi mộ trắng xóa hiên ngang bình thản giữa đất trời. Bỗng thấy lòng rưng rưng xúc động, thấy mình bé nhỏ may mắn và hạnh phúc biết bao so với những hình khối mầu trắng lặng lẽ và thiêng liêng ngợp nắng kia. Chao ôi! Dẫu biết từ lâu, ý thức từ lâu về sự hy sinh, về những mất mát của cha anh cho đất nước này, để mình có giây phút này, đứng đây mà suy tư, mà ngậm ngùi mà kính cẩn, thế nhưng chỉ khi trực diện bằng tất cả giác quan trước không gian và cảnh tượng như thế, con người ta mới thấu rõ hơn bất kỳ khi nào về những niệm thức đó.

Dâng hoa thắp hương xong, tôi theo chú Long đến từng hàng mộ nhỏ, cỏ mơn man gối mình lên thành mộ, lên lối đi, lấn bấn cuốn vào chân khách như để kể về những miền xanh bất diệt.

Chú Long dẫn tôi tới hàng mộ đầu, bên tay phải lối vào tượng đài, tay chỉ giọng trầm nhẹ: "Hẳn cháu nghe nhiều đến Lê Đình Chinh, người chiến sĩ xin nhập ngũ ở tuổi mười lăm và anh hùng ngã xuống ở tuổi mười tám. Ngôi mộ của anh được đặt ở vị trí hàng đầu này đấy"...

Vâng, tuổi mười tám của anh, và trăm nghìn tuổi mười chín đôi mươi, hay chỉ nhích nhắc hơn thế, được ghi trên những tấm bia đó, ám ảnh tôi đến nghẹn ngào. Bằng tuổi họ ngày ấy, tôi, thế hệ chúng tôi được vô tư rong ruổi bao ước mơ cao xa, còn vô lo chuyện cuộc đời lớn lao ngoài kia. Vậy mà các anh đã đem tuổi xuân ấy đi thắp xanh cả vòm trời đất Việt, nối dài những dải bình yên Tổ quốc. Hẳn trong số họ, không ít người khi trút hơi thở cuối cùng vào gió, còn chưa từng biết đến một lần hò hẹn, còn chưa từng biết cầm tay ai đó mà mộng mơ mầu trắng hoa cưới, hoặc có những người nhắm mắt mang theo lời thề non hẹn biển, mà chẳng kịp biết mình đã để lỡ dở một chuyến yêu thương.

Chú Long vừa dẫn tôi đi vừa thủ thỉ kể chuyện, những câu chuyện đời gắn liền với nghề quản trang của mình trong suốt hai mươi bảy năm qua. Sau nhiều năm quân trường, năm 1987 chú được điều thẳng về đây khi đang làm nhiệm vụ quốc tế bên nước bạn Lào. Bởi thế, người đàn ông ấy tha thiết lắm với công việc, nặng lòng lắm với những ngôi mộ lặng lẽ nơi này. Bởi thế, ông coi tất cả những người nằm đó thân thương, gần gũi như đồng đội của mình, và bởi thế nên hơn hai nghìn ngôi mộ ở đây mà ông thuộc gần hết từng vị trí của những cái tên, nhớ rõ câu chuyện về họ nếu đã từng biết đến.

Đang thao thao, bất chợt chú dừng lại và ngồi xuống cạnh một ngôi mộ giữa khu K, mân mê rứt những sợi cỏ đan len lên bát hương, nghẹn ngào: "Khi đón những người đồng đội về, nhìn phần hài cốt của họ chỉ có một nhúm ít ỏi, thương lắm cháu ạ. Phần nhiều xương cốt còn lại chẳng biết lạc đâu đó trên đất nước này, điều chừng giản đơn thế mà càng nghĩ càng xót xa, nhận ra sự mất mát lớn quá so với những gì ta thấy được". Giây phút ấy không gian như lắng xuống, và chừng gió cũng ngừng mơn trớn trên những khóm cây. Tôi nghe rõ cả tiếng cá đớp động chân lá sen dưới lạch nước nhỏ bên cạnh, nghe rõ tiếng thở của người lính già trôi lãng đãng trong suy tư trăn trở. Chú nói đúng, những điều tưởng bé nhỏ thôi, nhưng lại là những mất mát vô cùng. Tôi chợt nghĩ, những bé nhỏ ấy đủ lớn lao cho một Việt Nam có hôm nay an bình vững chãi, thì còn đủ hào khí nung nóng những dòng máu đang chảy trong triệu triệu con tim tuổi trẻ đất Việt bây giờ...

Hai chú cháu đi hết bảy khu mộ tự lúc nào không biết. Tôi quên mất thời gian trong mênh mang những xúc cảm, với bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu nỗi niềm của người lính già ấy trong suốt buổi chiều. Hoàng hôn đã chùng chiềng đổ thâm thẫm mầu mây, chừng đang đón đợi cơn mưa từ phía xa tít. Tôi bỗng thấy chiều mang sắc màu mùa Vu Lan. Trước khi ra về, tôi muốn thả lòng mình theo con mương đầy sen, chạy dài phía sau tượng đài, hít hà thật sâu hương sen ngào ngạt phả theo gió đồng để nghe lòng mình nhẹ bẫng mà an nhiên. Sen ở đây không quá xanh tốt, không nhiều hoa, bông không to và không rực rỡ, chỉ loáng thoáng điểm trong lùm lá những đóa nho nhỏ vừa vặn xinh, mầu hồng phơn phớt phai, ấy thế mà trông đẹp đến bình dị và thanh cao giữa chốn linh thiêng này. Chú Long bảo: "Sen này, chú vận động anh em đi xin về trồng, mỗi năm thêm một ít, đến giờ đã lan khắp con mương chạy quanh bốn phía rồi. Có sen, nghĩa trang cũng bớt cô quạnh và vong hồn của những người nằm đó sẽ thanh tịnh bình yên. Chú tin thế, nên trồng thật nhiều".

Trong lúc rong ruổi theo bờ mương, tôi sững người khi nhìn thấy hai đài bia lớn nằm ở hai bên, ngay phía sau tượng đài. Đang trân trân nhìn hàng chữ trên đó, vừa định quay ra hỏi thì chú Long đã bước nhanh lên trước, giọng trầm vang: "À, chú chưa nói với cháu về hai ngôi mộ tập thể của những người lính tình nguyện Việt Nam, các anh hy sinh khi làm nhiệm vụ quốc tế bên nước bạn Lào".

Rồi chú lại say sưa kể về một cuộc thảm sát của giặc, khi quân ta đang trú ngụ, hoạt động trong hai chiếc hang ở nước bạn, bất ngờ bị bao vây đánh úp... Ngày tìm kiếm được hài cốt, đã không thể phân biệt danh tính từng người, nên khi quy tập về đây, những hài cốt nào cùng một hang thì được chôn cất trong cùng một huyệt mộ. Thế nên ở đây có một mộ 63 hài cốt và một mộ có 28 hài cốt...

Tôi đứng rất lâu chỉ để nhìn hàng chữ. Một cảm giác buốt nhói. Những người con của đất nước kiên trung này, cả khi đã nằm xuống, mà đến cái tên cũng không thể gọi được sau làn khói hương lam loang đầy mắt mẹ. Thương lắm, những người ở lại, không thể đắp cho con, cho anh mình một nấm mộ tròn trĩnh trên cánh đồng quê hương ngày đầy nắng và gió thanh bình. Các anh nằm đó bên nhau từ ngày máu thịt và linh hồn lẫn vào làm một. Làm một để hóa xanh bầu trời trên cao kia. Làm một để trở thành bất tử với cái tên "Quân tình nguyện Việt Nam..." trong lòng dân tộc và bạn bè quốc tế. Tôi nhìn ra bốn bề cánh đồng, thấy hình như những ngọn lúa, những rặng cây đang cúi đầu. Bình yên, hạnh phúc này đánh đổi nhiều quá những mất mát vô hình, không tên. Mắt nhòa đi, tôi khẽ cúi đầu lặng lẽ thật lâu với cỏ.

Chiến tranh đã đi qua, đã lùi xa và trở thành quá khứ. Đất nước đang lớn lên cùng bạn bè năm châu. Còn đó những hào hùng oanh liệt, rạng rỡ trên từng trang sử, trong niềm tự hào của mỗi chúng ta. Và còn đó, cả những vết đau trên mình Tổ quốc, nhưng nhức lòng người Việt mỗi khi tháng Bảy về. Người nằm xuống có lẽ đã thanh thản, bởi xương máu của họ đã đổi được bình yên cho non sông, người ở lại cũng khép nỗi đau, mà tự hào vì người thân của mình đã hóa thành một phần Đất Nước. Nhưng day dứt lắm những bóng người đau đáu, miệt mòn ngày tháng kiếm tìm phần mộ của người thân yêu trên khắp các nghĩa trang. Tôi cứ ám ảnh lời của chú Long: "Thương nhất là những người mẹ, người con, người em nào đó, mang niềm hy vọng bước qua cánh cổng này, cần mẫn đọc kỹ từng tấm bia, để rồi lại tha thểu vô vọng ra về".

Rồi họ sẽ lại đi bao nhiêu nơi như thế. Hy vọng, ngậm ngùi và thất vọng sẽ còn nối tiếp nhau trong hành trình không hứa hẹn.

Chia tay chú Long và nghĩa trang Hàm Rồng trong ngổn ngang, bâng khuâng nhiều cảm xúc, tôi vội vã chạy đua cùng cơn giông phía cuối trời, hối hả ngược bờ sông Mã trở ra thành phố, hòa mình vào ầm ào gió bụi, tấp nập cuộc sống thị thành. Bỗng nhận ra lòng mình yên bình và thanh tịnh đến lạ. Chừng như đó là lòng tin, lòng tin bất diệt vào đất nước này. Đất nước đời đời có những người con kiên trung, để cả khi hóa thành nắm đất nâu, vẫn thắp bỏng được những dòng máu đỏ trong triệu triệu trái tim thế hệ tiếp nối. Đó là niềm tin bất diệt, dù bây giờ hay ngày mai biển quê hương dậy sóng, đất nước sẽ bình yên đi qua, bởi người Việt Nam muôn đời yêu hòa bình và khi cần, họ luôn sẵn sàng đem thân mình chở che cho dải đất hình chữ S này xanh vẹn nguyên màu của lời ca dao ngàn thuở. Bằng chứng là kia, những cây phong ba mang dòng máu Lạc Hồng đang hiên ngang chắn gió ngoài khơi...

Mưa, cơn mưa tháng Bảy chạy dài theo lối tôi về. Mưa hát: hỡi những người con đã ngủ yên trong lòng đất mẹ, Tổ quốc ngàn đời ghi công các anh!

Có thể bạn quan tâm

Nhà báo Nguyễn Trọng Định - người đầu tiên từ bên phải qua. Ảnh tư liệu của Nhà báo Trần Mai Hạnh

Người ra đi từ gốc đa Hàng Trống

Trong bức ảnh được chụp ngày 14/7/1968 tại bộ phận tiền phương Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Đà thuộc địa bàn huyện Duy Xuyên có tám nhà báo thì sau đó bốn người là liệt sĩ, một người là thương binh nặng. Người hy sinh đầu tiên là nhà báo-nhà thơ Nguyễn Trọng Định, phóng viên Báo Nhân Dân, cùng trong tổ phóng viên vào chiến trường Quảng Đà một ngày với tôi", nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh hồi tưởng.
Lần họp lớp gần nhất là chuyến thăm Khu di tích lịch sử Bạch Đằng (Thủy Nguyên, TP Hải Phòng).

Trưởng thành nhờ đất nước và cùng đất nước

Tháng 6/2022 này, sinh viên Khoa Ngữ văn, khóa VIII, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) kỷ niệm 55 năm ra trường. Với lịch sử đất nước, 55 năm không dài. Nhưng quãng thời gian đó đủ để một thế hệ đi từ khởi điểm của tuổi thanh xuân đến cận kề những bậc thang cuối của đời người.

Người dân xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận thu hoạch trái thanh long. Ảnh: Duy Hiển

Ân tình miền cát

Mảnh vườn đang lên xanh-cái mầu xanh từ những cành thanh long vươn dài-của Quân là hình ảnh sống động và lưu lại đầu tiên trong tâm trí tôi khi về với náo nức đất trời Bình Thuận, trong những ngày cuối năm nhiều cảm xúc.

Nhà báo Trần Lâm.

Mùa thu với hai nhà báo lão thành

Kể từ mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đội ngũ báo chí cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đông về số lượng và tăng về chất lượng.

Nụ cười ấm giữa ngày giông bão

Thành phố lại vào mùa mưa. Những cơn mưa dầm dề suốt ngày cùng con số ca nhiễm tăng cao, thêm nhiều hình ảnh cay sống mũi, đỏ hoe mắt khiến người thành phố thao thức.

Người dân hẻm 17, đường Gò Dầu (phường Tân Quý, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh) đi chợ tại "Gian hàng 0 đồng sẻ chia cùng khu cách ly". Ảnh: HUẾ XUÂN

Sài Gòn ân nghĩa

Không ai hiểu rõ Sài Gòn bằng chính người Sài Gòn. Sự hào sảng, nghĩa tình, lạc quan của thành phố này đã khiến cái sự “trọng thương” mà người nơi khác ví von đã không còn là một cảm thán tội nghiệp. Tự bản thân người nơi đây sẽ biến nó thành một sự khích lệ, động viên, là một ân tình lớn lao, mà có lẽ phải trải qua “mùa dịch bệnh”, người ta mới càng thật sự thấm thía hết ý nghĩa của từ này.

Trái tim của tôi

Trái tim của tôi

Sau nhà tôi hồi xưa có một cái khe núi. Nhà tôi đã ở gần khe núi rồi, nhưng vẫn chưa phải là nhà cuối cùng. Cuối cùng là nhà một người Tày, nằm tận cửa khe núi luôn. Vào mùa đông, khe gần như cạn, những tảng đá to như lưng trâu nằm trơ trơ ra. Nhưng cuối xuân, đầu hè, khi những tiếng sấm bắt đầu ì ùng và mưa rào trút xuống, thì nước bắt đầu chảy len lỏi qua những khe đá, và đầy dần lên. Nếu mưa kéo dài chừng nửa ngày thì dòng suối sẽ như một con thuồng luồng dài ngoằng, dữ dội, lạnh lùng, cuốn phăng theo nó tất cả những gì nằm lổng chổng ven đường.

Miền sen và làng cổ

Làng cổ Nha Xá, xã Mộc Nam, Hà Nam nổi tiếng với những nếp nhà cổ và nghề dệt lụa. Người làng tự hào lắm một vùng quê yên bình, nằm giữa hệ thống ao, đầm sen rộng bát ngát.

11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN

Chiều 30 tháng 4, chúng tôi đến Sài Gòn

14 giờ ngày 30/4/1975, trên chiếc xe Jeep "lùn", chúng tôi - nhóm phóng viên báo Chiến sĩ Giải phóng - Quân đoàn 2, vào tới dinh Ðộc Lập. Lúc này sân trước Dinh đang ồn ã với số đông phóng viên báo chí và cán bộ, chiến sĩ ta.

Minh họa: THU HÀ

Cúi đầu trước núi

Tự dưng lúc này đây, khi đang ngồi dưới chân một dãy núi Tây Nguyên mà trong tôi lại trào lên cảm thức về những ngọn núi. Ðó có thể là nỗi ám ảnh mang mạch thở linh sơn đâu đó trong tâm tưởng. Ngắm núi mà muốn thốt lên lời tự lòng mình, ơi những chóp đỉnh cao vời, cho tôi xin được ngàn lần cúi đầu ngưỡng vọng…    

Tinh khôi hoa trắng

Về quê tôi dịp này có thể dễ dàng bắt gặp ở khắp các lối ngõ, bờ ao bừng lên một mầu trắng muốt tinh khôi của hoa dành dành. Mùi hương ngọt nồng dẫn lối đưa đường, dụ bao bướm ong dập dìu tụ tìm hút mật. Khi dành dành vào kỳ trổ hoa, ấy là mùa xuân cũng chuẩn bị khép lại.

Hà Nội mùa cây thay lá

Hà Nội mỗi mùa mang một sắc, mỗi con phố nhuốm một màu, thảy tất bốn mùa đều để lại cho ta cảm nhận những nét đẹp bâng khuâng trong sâu thẳm lòng mình mà khó có nơi nào có được. 

Cải vàng gọi nắng triền sông

Cuối năm, gió đã chuyển mình, cái rét len lỏi đâu đó trong từng nhành cây, ngọn cỏ. Hoa cải vào mùa, xôn xao rực vàng nơi triền sông vắng. Buổi chiều bỗng dài ra, lũ bướm ong tíu tít, mải mê bay lượn đến quên cả lối về.

Những ô cửa phố

Dịp cuối thu đầu đông, hương hoa sữa nồng nàn tỏa. Tôi có thói quen dạo phố một mình chỉ để nhẩn nha ngắm những ô cửa sổ, đôi khi ngỡ ngàng bởi chỉ là ô cửa sổ thôi cũng quá nhiều kiểu dáng thiết kế và mầu sắc trang trí. Rất nhiều ô cửa sổ nhìn ra đường, bên những ban-công được trồng nhiều khóm hoa xinh xắn. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cửa sổ có lẽ cũng là đôi mắt của ngôi nhà. Cửa sổ tạo mỹ quan cho không gian chung cả tuyến phố. Ở Hà Nội, các phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Phan Ðình Phùng, Nguyễn Gia Thiều… còn hiện diện nhiều ô cửa sổ nhuốm thời gian. Ở đó còn nhiều biệt thự cổ kính, những bức tường loang mầu hoài niệm, khi ấy những ô cửa như cũng trầm ngâm ưu tư, gợi nhắc về bao kỷ niệm xưa xa. Giữa một thành phố đông đúc, có lúc tắc đường đến ngộp thở, thì mỗi ô cửa này như những nốt nhạc trầm, đọng lại vẻ thi vị, thân thương

Mùa đông của cha

Ký ức sâu đậm trong chị về cha, gắn với thời tiết theo mùa. Tuổi ấu thơ của chị là những đêm hè lặng gió, oi nồng. Cha ngồi quạt đổi tay cho ba chị em đến khuya. Nhiều đêm, cha gần như không ngủ. Dạo ấy, điện là thứ xa xỉ, chỉ được dùng để thắp sáng trong mấy ngày Tết; còn lại, đèn dầu “làm bạn” với mọi nhà quanh năm, suốt tháng.

Bán thổ cẩm ở chợ Si Ma Cai. Ảnh: TUẤN LỢI

Si Ma Cai lên phố

Tháng 11-1966, xã Si Ma Cai (Lào Cai) được thành lập trên cơ sở ba thôn, gồm Phố Thầu, Phố Cũ, Phố Mới. Gọi là Phố nhưng thực chất ở đây, ngoài phiên chợ chủ nhật đông đúc, một dãy phố người Hoa ở phố cũ, Đồn Biên phòng, thì chỉ có mấy ngôi nhà gỗ dựng rải rác, vài cửa hàng mua bán đổi chác nông, lâm sản và vật dụng thiết yếu… song ba cái tên đã thể hiện khát khao lên phố của đồng bào. Qua nhiều năm xây dựng, phát triển, ngày 11-2-2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra quyết định thành lập thị trấn Si Ma Cai thuộc huyện Si Ma Cai.

Đỗ Đức Thắng (bên phải) và Hồ Văn Quang trong trận tiến công Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, Quảng Trị, tháng 4-1970. Ảnh: ĐOÀN CÔNG TÍNH

Người trong ảnh

Đến thăm các bảo tàng lịch sử ở Hà Nội và Thành cổ Quảng Trị, tôi đã nhìn thấy bức ảnh này: Hai người lính thông tin đang trong trận đánh đối mặt trực diện lực lượng địch. 

Đường hoa

Trời dịu nắng rủ tôi về làng, với những thân thương mà suốt thời tuổi thơ tôi và bạn bè đồng lứa có những trò chơi trẻ dại. Bao năm xa quê, có người phần nào “mất gốc” nhưng có những người vẫn đong đầy những ô vuông ký ức về làng như một thứ tài sản, soi mình vào hình ảnh của làng, của phố hay những cung đường đi qua để trân quý những vẻ đẹp thân thương, và để sống tốt hơn.

Vết thương

Vết thương

Trung tuần tháng 7-1972, trong trận phục kích đánh vào tiểu đoàn Bảo an của địch đến cứu viện cho đồn Tô Ma đang bị Tiểu đoàn 309 của ta bao vây, tôi bị thương khá nặng. Hôm đó, tôi vừa cầm khẩu AK bật dậy, thì một quả M79 của địch nổ phía trước tôi chừng chục mét.

Nước mắt của nữ chiến binh

Cô rất hay khóc. Tôi cũng hiểu. Dẫu cô nam tính, dẫu cô theo cách gọi cường điệu của tôi là một nữ tướng thì tướng vẫn có nước mắt.

Ngôi sao tháng bảy

Ngày tháng bảy bời bời xúc động khi cùng các bạn trẻ đoàn thanh niên của xã đến thăm mẹ. Mẹ là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, là niềm tự hào của xã Anh hùng quê tôi - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu nước, đã dâng hiến nhiều người con ưu tú cho Tổ quốc. Người dân quê chúng tôi vẫn thân thương gọi mẹ Hiền là bà Hến. Mẹ Hiền hiền lắm. Hiền như hoa trái trong vườn. Hiền như tên gọi mà mỗi khi cất lên đã chất chứa niềm nhân hậu.

Hoa ngọc lan vườn mẹ

Nhà tôi ở trong phố nên đất rất chật, mặt trước và mặt sau của ngôi nhà dài như ống tay áo, mẹ tôi cho người ta thuê để bán hàng. Ngõ dẫn vào khu giữa ngôi nhà nơi gia đình tôi sinh sống nhỏ như sợi chỉ khâu ở viền ống tay áo.

 Tượng đài Bác Hồ trên đảo Cô Tô (Quảng Ninh) Ảnh: Phạm Học

Mãi còn lưu dấu

1. Năm 1970, Tòa soạn báo Vùng mỏ chúng tôi được ông Ðỗ Thế Việt, cán bộ kháng chiến hoạt động ở khu mỏ Hồng Gai chuyển tới tấm thiếp của Bác Hồ gửi công nhân khu mỏ Hồng Gai năm 1953. Trong thư gửi kèm, ông Việt viết: "… Năm 1951, Công đoàn đặc khu Hồng Gai chúng tôi có gửi lên Việt Bắc biếu Bác Hồ một chiếc màn (quà biếu của một chị công nhân) và một bức tượng Bác bằng than đá do anh Trần Văn Mão, thợ mỏ Cẩm Phả tạc trong những ngày anh làm phu xe cuốc. Thì tháng 3-1953, Công đoàn đặc khu Hồng Gai nhận được tấm thiếp này của Bác Hồ từ Việt Bắc gửi về cảm ơn. Nay tôi thấy cần phải gửi về cho các đồng chí, mong được giới thiệu lại với công nhân khu mỏ về một bút tích quý giá của Bác…".

Nhật ký của một người Công giáo

Nhật ký của một người Công giáo

Cuối cùng tôi cũng đã tìm được nhà anh Triệu ở một phố hẻm quận Tân Bình. Sài Gòn mới được giải phóng. Thành phố tôi lần đầu đặt chân, nhưng lòng thì đã đến.

Những mùa hoa đậu biếc

Tôi nhận ra mầu tím hoa đậu biếc đang lấp lánh trong ly trà trước mặt mình. Trà hoa đậu biếc. Mầu tím ấy, thức dậy ký ức một thời tuổi thơ tôi trong vắt, bình yên.

Công suất các khu xử lý rác hiện nay chưa đáp ứng để thu gom và xử lý triệt để rác thải trên địa bàn thành phố.

Gỡ nút thắt quy hoạch, xử lý rác thải ở Hà Nội

Kỳ 2: Rà soát năng lực, đẩy nhanh tiến độ thực hiện

(Tiếp theo và hết)

Trong Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt từ tháng 10-2016, đã tính đến sự phối hợp vùng trong xử lý rác thải một số tỉnh chung quanh Thủ đô. Vấn đề quan trọng nhất là sự đồng thuận của nhân dân, nỗ lực của các cơ quan chức năng, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện dự án.