Mãi còn lưu dấu

1. Năm 1970, Tòa soạn báo Vùng mỏ chúng tôi được ông Ðỗ Thế Việt, cán bộ kháng chiến hoạt động ở khu mỏ Hồng Gai chuyển tới tấm thiếp của Bác Hồ gửi công nhân khu mỏ Hồng Gai năm 1953. Trong thư gửi kèm, ông Việt viết: "… Năm 1951, Công đoàn đặc khu Hồng Gai chúng tôi có gửi lên Việt Bắc biếu Bác Hồ một chiếc màn (quà biếu của một chị công nhân) và một bức tượng Bác bằng than đá do anh Trần Văn Mão, thợ mỏ Cẩm Phả tạc trong những ngày anh làm phu xe cuốc. Thì tháng 3-1953, Công đoàn đặc khu Hồng Gai nhận được tấm thiếp này của Bác Hồ từ Việt Bắc gửi về cảm ơn. Nay tôi thấy cần phải gửi về cho các đồng chí, mong được giới thiệu lại với công nhân khu mỏ về một bút tích quý giá của Bác…".

 Tượng đài Bác Hồ trên đảo Cô Tô (Quảng Ninh) Ảnh: Phạm Học
Tượng đài Bác Hồ trên đảo Cô Tô (Quảng Ninh) Ảnh: Phạm Học

Phía trên cùng là hai hàng chữ đánh máy: "Gởi anh chị em công nhân Hồng Gai. Nhờ Tổng Liên đoàn lao động chuyển". Dưới hai hàng chữ này là phần viết tay: "Hồ Chí Minh". Nội dung của thiếp:

"Tôi đã nhận được bức tượng và chiếc màn anh chị em gởi biếu. Tôi rất cảm động và cảm ơn. Mong các bạn đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết nội bộ, đoàn kết giữa công nhân và đồng bào Việt Nam. Ðoàn kết giữa công nhân ta và anh em công nhân Hoa kiều. Giữ vững tinh thần, tích trữ lực lượng. Chuẩn bị sẵn sàng, chờ dịp phối hợp với quân và dân ta tiến sang tổng phản công. Trong tổ chức và công tác, phải khôn khéo giữ bí mật. Phải trường kỳ và gian khổ, nhưng kháng chiến của ta nhất định thắng lợi".

Tòa soạn đã kính chuyển tấm thiếp về Nhà Bảo tàng Hồ Chí Minh của khu mỏ, đồng thời, tôi được Ban Biên tập phân công tìm gặp ông Trần Văn Mão để viết bài về người đã tạc tượng Bác Hồ. Tôi đã gặp được ông Trần Văn Mão (năm đó bác 69 tuổi), là công nhân Xí nghiệp kiến thiết cơ bản mỏ Cẩm Phả, đã nghỉ hưu. Ông Mão kể lại với tôi về 29 ngày tạc tượng Bác Hồ với niềm xúc động khôn cùng.

Từng bị cầm tù ở nhà tù Lạng Sơn, khi trở về Cẩm Phả, ông Mão làm phu than xe cuốc ở Moong-dăng. Tuy là phu xe cuốc, nhưng công việc thực tế của ông Mão lại chủ yếu là tạc đồ than đá phục vụ chủ mỏ Béc-na. Về Cẩm Phả, ông Mão tiếp tục sinh hoạt trong tổ chức công đoàn bí mật của mỏ do anh Ngô Văn Xuân phụ trách. Một đêm, anh Xuân đến gặp ông giao nhiệm vụ: "Còn hơn tháng nữa thì đến ngày kỷ niệm Lao động toàn thế giới, tiếp nữa là 19-5 kỷ niệm Ngày sinh Bác Hồ. Ðoàn thể đã họp bàn kỹ, nhất trí cử tôi đến bàn với anh. Ðể có món quà của giới thợ mỏ than mình dâng Bác, anh cố gắng tạc cho Ðoàn thể một bức tượng Bác Hồ bằng than đá thì rất quý". Nghe anh Xuân nói vậy, ông Mão vừa vui vừa rất lo lắng.

Anh Xuân động viên thêm:

- Tôi tin là anh làm được. Ðoàn thể cũng tin như vậy!

Anh Xuân lấy từ túi áo trong ra một đồng tiền đúc bằng nhôm trắng:

- Anh dựa theo hình Bác đúc trong đồng tiền này nhé!

- Vậy đến khi nào cần có?

- Phấn đấu làm xong càng sớm càng tốt, cần xong trước ngày mồng 1-5.

Sau đó là chuỗi ngày từ nghiên cứu chân dung Bác, đến chọn than kíp-lê chất lượng cao từ đống than chủ nhất Béc-na dành riêng cho ông để làm đồ than. Ông Mão đào một cái hố to bằng cái nón, sâu nửa thước ở chái sau nhà, nơi ít người để ý tới. Hố này phòng khi có động thì ông đặt tượng Bác xuống, đậy một miếng sắt và đổ cát lên, còn ông thì tuồn ra phía sau trốn vào rừng. Ông khoét trên vách hai lỗ tròn, từ chỗ ông ngồi tạc tượng có thể nhìn suốt ra đường cái quan sát.

Hình Bác đúc trên đồng tiền là hình in nghiêng, thành thử chính diện gương mặt Bác không thấy được. Ông Mão lại phải tìm đến chỗ anh Phúc, bấy giờ là Chủ tịch thị trấn Cẩm Phả. Rất may anh Phúc có bức ảnh Bác in trên giấy to bằng bàn tay. Ông Mão dành đúng một ngày để quan sát kỹ lưỡng cả hai hình Bác, một chính diện, một nhìn nghiêng. Từ cặp mắt, vầng trán, chòm râu, gương mặt đều thể hiện sự tinh anh, thông minh, tài trí, đức độ. Mỗi ngày, ông chỉ tranh thủ được giờ nghỉ buổi trưa và buổi tối, sau khi đi làm về, để tạc tượng. Có những lần mải mê đến quá nửa đêm, say mê đến nỗi quên cả ăn, cả ngủ.

Một đêm, khi ông đang sửa phần gương mặt tượng thì bỗng có tiếng thốt lên đột ngột sau lưng:

- Trời! Thầy mày tạc tượng Bác Hồ!

- Suỵt! - Ông Mão đứng phắt dậy bịt miệng bà vợ - Khẽ chứ!

- Sao thầy mày lại giấu tôi? - Thầy mày coi thường tôi quá! Thầy mày cho tôi biết, tôi gác cho mà làm tốt hơn không?

Từ hôm ấy trở đi, cứ ban đêm thì vợ ông vừa nấu rượu, vừa gác cho ông làm. Nấu rượu là để "làm phép’’ cho có cớ thức đêm mà thôi.

Khi ông Mão tạc sắp xong bức tượng thì anh Xuân đến thăm. Anh trầm trồ khen ông tạc tượng Bác rất giống. Ông Mão sung sướng trào nước mắt. Ngày thứ hai mươi chín thì ông Mão hoàn thiện xong bức tượng. Anh Xuân dặn ông hễ xong là đưa ngay đến chỗ anh để chuyển cho Ðoàn thể, rồi chuyển lên Việt Bắc biếu Bác.

Việc đưa bức tượng đến chỗ anh Xuân cũng được vợ ông giúp sức. Tượng được bọc lại bằng một chiếc khăn vuông đặt gọn trong cái thúng trên để vài mớ rau. Từ nhà ông Mão đến chỗ anh Xuân cách non cây số, nhưng phải qua một ngã ba và hai ngã tư, rất dễ gặp lính. May thay không gặp trắc trở nào.

Nghe xong câu chuyện, tôi đưa cho ông Mão xem tấm thiếp Bác Hồ gửi năm 1953 mà trước khi xuống Cửa Ông tìm gặp ông, tôi đã đến Nhà Bảo tàng Hồ Chí Minh của khu mỏ mượn lại ít ngày. Ông Mão ngắm nghía rất kỹ, lặng đi, rồi mới chậm rãi đọc từng tiếng một, giọng trầm đục, đôi mắt rưng rưng…

2. Trong lần tới thăm Cô Tô ngày mồng 9 tháng 5 năm 1961, hồi đó Cô Tô còn thuộc tỉnh Hải Ninh, Bác Hồ đã đi thăm đồng muối, bới khoai cùng nông dân trên ruộng, thăm hỏi gia đình thuyền chài. Bà con các dân tộc trên đảo quây quần quanh Người. Người nói: "Thủ đô Hà Nội tuy cách xa các đảo, nhưng Ðảng và Chính phủ luôn luôn quan tâm đến đồng bào các đảo và mong đồng bào đoàn kết cố gắng và tiến bộ". Yêu kính Bác, chính quyền và người dân nơi đây đã xin dựng tượng Người. Tượng Bác được dựng bán thân bằng thạch cao. Ðây là bức tượng đầu tiên và duy nhất được Bác Hồ cho phép dựng lúc Người còn sống.

Ðầu năm 1976, bức tượng bán thân ấy được dựng lại bằng tượng toàn thân đúc bê-tông cốt thép được nhà điêu khắc Nguyễn Văn Quế cùng các đồng nghiệp thực hiện. Năm ấy tôi cùng hai nhà báo Trọng Thanh và Lê Bá Thuyên - Chủ nhiệm Báo ảnh Việt Nam cùng ra đảo tác nghiệp. Phải vượt biển bằng tàu gỗ, người nào cũng chao đảo, say sóng. Cô Tô nghèo và hoang vu. Ngoài trồng lúa, hoa màu, làm muối, đánh bắt hải sản nhỏ lẻ, trên đảo đã có dự án nuôi trai lấy ngọc. Bát cháo trai "diện thải loại" chúng tôi ăn còn nhằn ra được hơn chục viên ngọc trai tròn nhỏ như hạt đỗ xanh.

Năm 1996, kỷ niệm lần thứ 106 Ngày sinh Bác Hồ, bức tượng Bác Hồ bằng đá hoa cương được thay thế bức tượng đúc bằng bê-tông cốt thép trước đó. Cho đến bây giờ, tượng Bác Hồ trên đảo Cô Tô vẫn được các nhà điêu khắc đánh giá là bức tượng Bác đẹp nhất vùng Ðông Bắc. Bác đứng đó uy nghiêm, lưng tựa núi gương mặt hướng ra Biển Ðông bao la, tay phải giơ cao vẫy chào như chở che cho vùng đất và biển trời nơi đây. Tôi nhớ tới những câu thơ của nhà thơ Trần Anh Trang:

Sau một ngày đường biển xa xôi

Giữa trùng khơi lại được gặp Người...

Ðất mẹ nghìn năm tự xé mình ra

Cho ta biển, cho ta trời, cho ta ngàn vạn đảo

Câu thơ khẳng định đanh thép về chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Mỗi tấc đất, tấc trời, tấc biển đều là máu là thịt của Ðất Mẹ sinh ra.

Ðường đến Cô Tô giờ đã gần lại, thuận tiện hơn rất nhiều những chuyến ra đảo của chúng tôi ngày trước. Và với bất cứ ai đặt chân đến hòn đảo vùng Ðông Bắc của Tổ quốc ấy đều lưu giữ xúc cảm thiêng liêng, khi đứng trước bức tượng Bác Hồ. Mãi mãi, Bác Hồ vẫn lưu dấu tình cảm của Người với Cô Tô.

Có thể bạn quan tâm

Nhà báo Nguyễn Trọng Định - người đầu tiên từ bên phải qua. Ảnh tư liệu của Nhà báo Trần Mai Hạnh

Người ra đi từ gốc đa Hàng Trống

Trong bức ảnh được chụp ngày 14/7/1968 tại bộ phận tiền phương Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Đà thuộc địa bàn huyện Duy Xuyên có tám nhà báo thì sau đó bốn người là liệt sĩ, một người là thương binh nặng. Người hy sinh đầu tiên là nhà báo-nhà thơ Nguyễn Trọng Định, phóng viên Báo Nhân Dân, cùng trong tổ phóng viên vào chiến trường Quảng Đà một ngày với tôi", nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh hồi tưởng.
Lần họp lớp gần nhất là chuyến thăm Khu di tích lịch sử Bạch Đằng (Thủy Nguyên, TP Hải Phòng).

Trưởng thành nhờ đất nước và cùng đất nước

Tháng 6/2022 này, sinh viên Khoa Ngữ văn, khóa VIII, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) kỷ niệm 55 năm ra trường. Với lịch sử đất nước, 55 năm không dài. Nhưng quãng thời gian đó đủ để một thế hệ đi từ khởi điểm của tuổi thanh xuân đến cận kề những bậc thang cuối của đời người.

Người dân xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận thu hoạch trái thanh long. Ảnh: Duy Hiển

Ân tình miền cát

Mảnh vườn đang lên xanh-cái mầu xanh từ những cành thanh long vươn dài-của Quân là hình ảnh sống động và lưu lại đầu tiên trong tâm trí tôi khi về với náo nức đất trời Bình Thuận, trong những ngày cuối năm nhiều cảm xúc.

Nhà báo Trần Lâm.

Mùa thu với hai nhà báo lão thành

Kể từ mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đội ngũ báo chí cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đông về số lượng và tăng về chất lượng.

Nụ cười ấm giữa ngày giông bão

Thành phố lại vào mùa mưa. Những cơn mưa dầm dề suốt ngày cùng con số ca nhiễm tăng cao, thêm nhiều hình ảnh cay sống mũi, đỏ hoe mắt khiến người thành phố thao thức.

Người dân hẻm 17, đường Gò Dầu (phường Tân Quý, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh) đi chợ tại "Gian hàng 0 đồng sẻ chia cùng khu cách ly". Ảnh: HUẾ XUÂN

Sài Gòn ân nghĩa

Không ai hiểu rõ Sài Gòn bằng chính người Sài Gòn. Sự hào sảng, nghĩa tình, lạc quan của thành phố này đã khiến cái sự “trọng thương” mà người nơi khác ví von đã không còn là một cảm thán tội nghiệp. Tự bản thân người nơi đây sẽ biến nó thành một sự khích lệ, động viên, là một ân tình lớn lao, mà có lẽ phải trải qua “mùa dịch bệnh”, người ta mới càng thật sự thấm thía hết ý nghĩa của từ này.

Trái tim của tôi

Trái tim của tôi

Sau nhà tôi hồi xưa có một cái khe núi. Nhà tôi đã ở gần khe núi rồi, nhưng vẫn chưa phải là nhà cuối cùng. Cuối cùng là nhà một người Tày, nằm tận cửa khe núi luôn. Vào mùa đông, khe gần như cạn, những tảng đá to như lưng trâu nằm trơ trơ ra. Nhưng cuối xuân, đầu hè, khi những tiếng sấm bắt đầu ì ùng và mưa rào trút xuống, thì nước bắt đầu chảy len lỏi qua những khe đá, và đầy dần lên. Nếu mưa kéo dài chừng nửa ngày thì dòng suối sẽ như một con thuồng luồng dài ngoằng, dữ dội, lạnh lùng, cuốn phăng theo nó tất cả những gì nằm lổng chổng ven đường.

Miền sen và làng cổ

Làng cổ Nha Xá, xã Mộc Nam, Hà Nam nổi tiếng với những nếp nhà cổ và nghề dệt lụa. Người làng tự hào lắm một vùng quê yên bình, nằm giữa hệ thống ao, đầm sen rộng bát ngát.

11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN

Chiều 30 tháng 4, chúng tôi đến Sài Gòn

14 giờ ngày 30/4/1975, trên chiếc xe Jeep "lùn", chúng tôi - nhóm phóng viên báo Chiến sĩ Giải phóng - Quân đoàn 2, vào tới dinh Ðộc Lập. Lúc này sân trước Dinh đang ồn ã với số đông phóng viên báo chí và cán bộ, chiến sĩ ta.

Minh họa: THU HÀ

Cúi đầu trước núi

Tự dưng lúc này đây, khi đang ngồi dưới chân một dãy núi Tây Nguyên mà trong tôi lại trào lên cảm thức về những ngọn núi. Ðó có thể là nỗi ám ảnh mang mạch thở linh sơn đâu đó trong tâm tưởng. Ngắm núi mà muốn thốt lên lời tự lòng mình, ơi những chóp đỉnh cao vời, cho tôi xin được ngàn lần cúi đầu ngưỡng vọng…    

Tinh khôi hoa trắng

Về quê tôi dịp này có thể dễ dàng bắt gặp ở khắp các lối ngõ, bờ ao bừng lên một mầu trắng muốt tinh khôi của hoa dành dành. Mùi hương ngọt nồng dẫn lối đưa đường, dụ bao bướm ong dập dìu tụ tìm hút mật. Khi dành dành vào kỳ trổ hoa, ấy là mùa xuân cũng chuẩn bị khép lại.

Hà Nội mùa cây thay lá

Hà Nội mỗi mùa mang một sắc, mỗi con phố nhuốm một màu, thảy tất bốn mùa đều để lại cho ta cảm nhận những nét đẹp bâng khuâng trong sâu thẳm lòng mình mà khó có nơi nào có được. 

Cải vàng gọi nắng triền sông

Cuối năm, gió đã chuyển mình, cái rét len lỏi đâu đó trong từng nhành cây, ngọn cỏ. Hoa cải vào mùa, xôn xao rực vàng nơi triền sông vắng. Buổi chiều bỗng dài ra, lũ bướm ong tíu tít, mải mê bay lượn đến quên cả lối về.

Những ô cửa phố

Dịp cuối thu đầu đông, hương hoa sữa nồng nàn tỏa. Tôi có thói quen dạo phố một mình chỉ để nhẩn nha ngắm những ô cửa sổ, đôi khi ngỡ ngàng bởi chỉ là ô cửa sổ thôi cũng quá nhiều kiểu dáng thiết kế và mầu sắc trang trí. Rất nhiều ô cửa sổ nhìn ra đường, bên những ban-công được trồng nhiều khóm hoa xinh xắn. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cửa sổ có lẽ cũng là đôi mắt của ngôi nhà. Cửa sổ tạo mỹ quan cho không gian chung cả tuyến phố. Ở Hà Nội, các phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Phan Ðình Phùng, Nguyễn Gia Thiều… còn hiện diện nhiều ô cửa sổ nhuốm thời gian. Ở đó còn nhiều biệt thự cổ kính, những bức tường loang mầu hoài niệm, khi ấy những ô cửa như cũng trầm ngâm ưu tư, gợi nhắc về bao kỷ niệm xưa xa. Giữa một thành phố đông đúc, có lúc tắc đường đến ngộp thở, thì mỗi ô cửa này như những nốt nhạc trầm, đọng lại vẻ thi vị, thân thương

Mùa đông của cha

Ký ức sâu đậm trong chị về cha, gắn với thời tiết theo mùa. Tuổi ấu thơ của chị là những đêm hè lặng gió, oi nồng. Cha ngồi quạt đổi tay cho ba chị em đến khuya. Nhiều đêm, cha gần như không ngủ. Dạo ấy, điện là thứ xa xỉ, chỉ được dùng để thắp sáng trong mấy ngày Tết; còn lại, đèn dầu “làm bạn” với mọi nhà quanh năm, suốt tháng.

Bán thổ cẩm ở chợ Si Ma Cai. Ảnh: TUẤN LỢI

Si Ma Cai lên phố

Tháng 11-1966, xã Si Ma Cai (Lào Cai) được thành lập trên cơ sở ba thôn, gồm Phố Thầu, Phố Cũ, Phố Mới. Gọi là Phố nhưng thực chất ở đây, ngoài phiên chợ chủ nhật đông đúc, một dãy phố người Hoa ở phố cũ, Đồn Biên phòng, thì chỉ có mấy ngôi nhà gỗ dựng rải rác, vài cửa hàng mua bán đổi chác nông, lâm sản và vật dụng thiết yếu… song ba cái tên đã thể hiện khát khao lên phố của đồng bào. Qua nhiều năm xây dựng, phát triển, ngày 11-2-2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra quyết định thành lập thị trấn Si Ma Cai thuộc huyện Si Ma Cai.

Đỗ Đức Thắng (bên phải) và Hồ Văn Quang trong trận tiến công Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, Quảng Trị, tháng 4-1970. Ảnh: ĐOÀN CÔNG TÍNH

Người trong ảnh

Đến thăm các bảo tàng lịch sử ở Hà Nội và Thành cổ Quảng Trị, tôi đã nhìn thấy bức ảnh này: Hai người lính thông tin đang trong trận đánh đối mặt trực diện lực lượng địch. 

Đường hoa

Trời dịu nắng rủ tôi về làng, với những thân thương mà suốt thời tuổi thơ tôi và bạn bè đồng lứa có những trò chơi trẻ dại. Bao năm xa quê, có người phần nào “mất gốc” nhưng có những người vẫn đong đầy những ô vuông ký ức về làng như một thứ tài sản, soi mình vào hình ảnh của làng, của phố hay những cung đường đi qua để trân quý những vẻ đẹp thân thương, và để sống tốt hơn.

Vết thương

Vết thương

Trung tuần tháng 7-1972, trong trận phục kích đánh vào tiểu đoàn Bảo an của địch đến cứu viện cho đồn Tô Ma đang bị Tiểu đoàn 309 của ta bao vây, tôi bị thương khá nặng. Hôm đó, tôi vừa cầm khẩu AK bật dậy, thì một quả M79 của địch nổ phía trước tôi chừng chục mét.

Nước mắt của nữ chiến binh

Cô rất hay khóc. Tôi cũng hiểu. Dẫu cô nam tính, dẫu cô theo cách gọi cường điệu của tôi là một nữ tướng thì tướng vẫn có nước mắt.

Ngôi sao tháng bảy

Ngày tháng bảy bời bời xúc động khi cùng các bạn trẻ đoàn thanh niên của xã đến thăm mẹ. Mẹ là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, là niềm tự hào của xã Anh hùng quê tôi - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu nước, đã dâng hiến nhiều người con ưu tú cho Tổ quốc. Người dân quê chúng tôi vẫn thân thương gọi mẹ Hiền là bà Hến. Mẹ Hiền hiền lắm. Hiền như hoa trái trong vườn. Hiền như tên gọi mà mỗi khi cất lên đã chất chứa niềm nhân hậu.

Hoa ngọc lan vườn mẹ

Nhà tôi ở trong phố nên đất rất chật, mặt trước và mặt sau của ngôi nhà dài như ống tay áo, mẹ tôi cho người ta thuê để bán hàng. Ngõ dẫn vào khu giữa ngôi nhà nơi gia đình tôi sinh sống nhỏ như sợi chỉ khâu ở viền ống tay áo.

Nhật ký của một người Công giáo

Nhật ký của một người Công giáo

Cuối cùng tôi cũng đã tìm được nhà anh Triệu ở một phố hẻm quận Tân Bình. Sài Gòn mới được giải phóng. Thành phố tôi lần đầu đặt chân, nhưng lòng thì đã đến.

Những mùa hoa đậu biếc

Tôi nhận ra mầu tím hoa đậu biếc đang lấp lánh trong ly trà trước mặt mình. Trà hoa đậu biếc. Mầu tím ấy, thức dậy ký ức một thời tuổi thơ tôi trong vắt, bình yên.

Công suất các khu xử lý rác hiện nay chưa đáp ứng để thu gom và xử lý triệt để rác thải trên địa bàn thành phố.

Gỡ nút thắt quy hoạch, xử lý rác thải ở Hà Nội

Kỳ 2: Rà soát năng lực, đẩy nhanh tiến độ thực hiện

(Tiếp theo và hết)

Trong Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt từ tháng 10-2016, đã tính đến sự phối hợp vùng trong xử lý rác thải một số tỉnh chung quanh Thủ đô. Vấn đề quan trọng nhất là sự đồng thuận của nhân dân, nỗ lực của các cơ quan chức năng, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện dự án.

Những sắc thái của trường ca

Nghĩ về trường ca Việt Nam hiện đại, tôi rất tâm đắc với ý kiến của TS Chu Văn Sơn: "Khi thơ trữ tình muốn trình bày những suy cảm về những vận động lớn lao, thậm chí, kỳ vĩ của đời sống bằng một hình thức lớn, khi ấy trường ca xuất hiện. Nói gọn hơn, khi thơ trữ tình muốn chiếm lĩnh thực tại ở cấp độ cái kỳ vĩ thì trường ca bắt đầu lên tiếng". Sau ngày đất nước thống nhất, trường ca ngày càng nở rộ. Có một thế hệ những nhà thơ đã đi qua chiến tranh và tìm đến trường ca như một cuộc đại kiểm kê, một lời tâm sự lớn trước những biến cố lịch sử: Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Nguyễn Ðức Mậu, Từ Nguyên Tĩnh, Lê Mạnh Tuấn, Phạm Hồ Thu, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo, Trần Anh Thái, Thi Hoàng… Và, những người trẻ tuổi hơn đang tiếp nối mạch nguồn thể loại ấy hôm nay: Nguyễn Quang Hưng, Ðoàn Văn Mật, Lý Hữu Lương, Thy Nguyên…