Người trong ảnh

Đến thăm các bảo tàng lịch sử ở Hà Nội và Thành cổ Quảng Trị, tôi đã nhìn thấy bức ảnh này: Hai người lính thông tin đang trong trận đánh đối mặt trực diện lực lượng địch. 

Đỗ Đức Thắng (bên phải) và Hồ Văn Quang trong trận tiến công Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, Quảng Trị, tháng 4-1970. Ảnh: ĐOÀN CÔNG TÍNH
Đỗ Đức Thắng (bên phải) và Hồ Văn Quang trong trận tiến công Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, Quảng Trị, tháng 4-1970. Ảnh: ĐOÀN CÔNG TÍNH

Tôi đặc biệt ấn tượng với người lính đeo máy vô tuyến 2W có gương mặt trẻ măng nhìn thẳng về phía kẻ thù với một tâm thế bình tĩnh, sẵn sàng. Bức ảnh do phóng viên chiến trường Đoàn Công Tính chụp. Sau này, trong một chuyến đi cùng thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu thăm lại những người lính cũ của Trung đoàn 27 - còn có biệt danh Trung đoàn Triệu Hải Anh hùng (thuộc khu vực Sơn Tây cũ) tôi mới có dịp gặp người lính thông tin đeo máy vô tuyến 2W ấy. Anh tên là Đỗ Đức Thắng quê xã Sen Chiểu, huyện Phúc Thọ (Hà Nội). Hóa ra Đỗ Đức Thắng chưa đến nỗi già và khắc khổ như tôi hình dung. Thắng sinh năm 1952. Anh nhập ngũ tháng tám năm 1967 khi mới 15 tuổi. Nói điều ấy ra hôm nay có thể nhiều người khó tin, nhưng đó lại là sự thật. Thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào thời kỳ hao người tốn của, lại chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, ở hậu phương, những thanh niên cứ nặng khoảng trên dưới 40 kg, cao khoảng 1m50 là có thể tình nguyện hoặc động viên nhập ngũ. Ai chưa đủ tuổi có thể khai tăng cho hợp với luật tổng động viên trong hồ sơ. 

Người trong ảnh -0
Ông Đỗ Đức Thắng và vợ. 

Đỗ Đức Thắng vừa học xong cấp hai, anh phải “khai man” thêm ba năm cho đủ tuổi 18 để được lên đường ra trận. Tuy vậy, Thắng chỉ nặng 38 kg, cái tầm vóc nhỏ bé ấy không thể giấu được, nhưng vì anh rất hăng hái, nhanh nhẹn, quyết tâm cầm súng nên được cấp trên chấp nhận. Thắng được chọn làm liên lạc đại đội, sau tín nhiệm hơn, đưa lên làm liên lạc cho cán bộ tiểu đoàn. Suốt ba năm, giữ chân liên lạc, dường như cấp trên có ý vừa kèm cặp rèn luyện vừa chờ cho Thắng có những trải nghiệm chiến trường, họ mới đưa Thắng đi học cấp tốc lớp thông tin vô tuyến 2W. Tiểu đoàn có một tiểu đội thông tin 2W. Họ chỉ ở tiểu đoàn bộ khi không có chiến sự. Mỗi khi chuẩn bị tổ chức trận đánh, những người lính này lại được tăng cường cho các đại đội. Trận đánh mà Đỗ Đức Thắng tham gia và được phóng viên chiến trường Đoàn Công Tính ghi lại bằng hình ảnh, trở thành tác phẩm nhiếp ảnh nổi tiếng, là trận thứ năm Thắng tham gia. Đó là trận đánh trên Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, xã Cam Tuyền, huyện Cam Lộ, Quảng Trị, vào ngày 1-4-1970. Khi ấy, Đỗ Đức Thắng đã bước sang tuổi 18. Là chiến sĩ thông tin của tiểu đoàn 3, Đỗ Đức Thắng được tăng cường xuống đại đội 1. Trận đánh ấy rất ác liệt. Đại đội 1 bị bom và pháo bầy của địch đánh tan tác. Đỗ Đức Thắng không chịu rút, anh xông lên với trung đội chốt tiền tiêu. Khi chạy, khi lăn lê bò toài trên sườn đồi để tránh đạn địch. Quả đồi bị bom cày xới, cây cối nát tươm, hai chiến sĩ thông tin Đỗ Đức Thắng và Hồ Văn Quang (quê xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) tiếp cận được với trung đội chốt thì nhận ra họ đã hy sinh hết. Những thi thể liệt sĩ nằm ngổn ngang, có người bị cắt làm đôi, có người bị thiêu cháy đen không còn nhận ra danh tính. Thắng và Quang toan vác xác đồng đội đi mai táng thì bỗngThắng phát hiện ra một ổ đại liên của địch ở gần đấy đang chĩa nòng súng về phía mình. Bọn địch cũng đã phát hiện ra Thắng và Quang, chúng hô: 

- Hai thằng Việt Cộng oắt con, hãy bắt sống chúng nó!

Hai chiến sĩ liền quay tiểu liên về phía địch xả hết hai băng đạn rồi chạy thục mạng. Đạn đại liên địch bắn đuổi theo chát chúa. Một viên bắn sượt qua mông Thắng, sờ tay xuống thấy máu thấm ướt quần. Nhưng bản năng sinh tồn khiến Thắng quên đau, vẫn cắt rừng mà chạy. Chỉ khi về đến nơi hội quân của đơn vị, đồng đội mới băng vết thương cho Thắng. Khi ấy quay nhìn lên Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, Thắng thấy bọn địch đã phun xăng thiêu cháy xác những liệt sĩ của trung đội chốt, cố nén tiếng khóc cho khỏi ảnh hưởng đến tinh thần đồng đội mà nước mắt Thắng cứ trào ra.

Đỗ Đức Thắng còn tham gia mấy trận nữa, nhưng đáng nhớ nhất, và cũng là trận làm Thắng bị thương lần thứ hai diễn ra ở thôn An Lộng, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, Quảng Trị.

Đó là thời điểm diễn ra chiến dịch Thành cổ 81 ngày đêm, từ tháng 6 đến tháng 8-1972. Trung đoàn 27 có nhiệm vụ trấn giữ hành lang phía đông Thành cổ, đánh chặn các đơn vị lính dù từ máy bay nhảy xuống và thủy quân lục chiến từ biển đổ bộ lên. Nếu như trong chiến dịch đó tính trung bình mỗi ngày có khoảng một đại đội quân ta hy sinh trong Thành Cổ thì Trung đoàn 27 đánh chặn bên ngoài, tuy tỷ lệ hy sinh ít hơn, nhưng độ ác liệt thì không hề kém. Khi kết thúc chiến tranh, tổng kết quân số hy sinh của Trung đoàn lên tới 2.500 người. Quần thể bia tưởng niệm bằng đá xây trên đất xã Triệu Long, huyện Triệu Phong hôm nay đã ghi danh từng người, kể cả người có bia mộ và người không có bia mộ.

Trước cái ngày không thể quên ấy, Đỗ Đức Thắng được lệnh của tiểu đoàn tăng cường cho đại đội 1. Đại đội này vốn đã trở nên thân thuộc với anh từ những trận đánh trước. Thắng đeo ba-lô đằng trước, đeo máy vô tuyến 2W phía sau lưng, hành quân một mình xuống đại đội vào ban đêm. Trên đường đi qua những vườn cây, bãi cỏ, đến một công sự súng DKZ, Thắng nghe có tiếng người ú ớ bên trong. Anh bước vào thấy một người lính đang nằm ngửa trên đất, máu thấm ướt quần áo. Thắng hỏi:

- Cậu ở đơn vị nào?

- Tớ là Sơn, tiểu đội trưởng DKZ, tiểu đoàn 3. Tớ bị thương vào lưng, có lẽ gẫy xương sống nên không đứng lên nổi… Anh em trong tiểu đội đã hành quân theo đơn vị rồi. Họ dặn tớ cứ ở đây lát nữa sẽ có đội cáng thương đến. Thôi cậu giúp tớ, cho tớ về đội phẫu kẻo tớ chết mất…

Vết thương sau lưng của Sơn tuy đã được băng nhưng vẫn rỉ máu. Thắng xốc Sơn lên cõng đi. Đi được một quãng về phía bờ sông thì gặp đội cứu thương, Thắng giao Sơn cho họ. Lúc này hẳn Sơn rất đau, giọng nói đã khê và méo. Thắng chỉ nhớ Sơn nói giọng Thanh Hóa. Sau này khi cuộc chiến đã kết thúc Thắng cứ ân hận không biết địa chỉ cụ thể gia đình Sơn để hỏi xem Sơn còn sống hay đã hy sinh. Nếu Sơn còn sống thì cái vết thương quái ác ở cột sống có làm anh bị liệt không?

Vừa “bàn giao” Sơn cho đội cáng thương, đi được một quãng, Thắng lại bắt găp một tốp nữ du kích, họ đang băng vết thương cho một o. Thấy Thắng, họ bảo:

- Này anh giải phóng, nhờ anh băng vết thương cho o ni. Băng xong là tự o tìm đường về nhà. Còn tụi em phải hành quân tiếp. Hai ngày hôm nay bọn nó đánh năm lần, ta đều đánh lui cả năm, nhưng hy sinh cũng nhiều. 

- Tôi cũng đang vội nhưng không thể từ chối giúp đỡ các o - Thắng vừa nói vừa hạ ba-lô và máy 2W xuống.

- Anh về mô?

- Tôi về An Lộng, Triệu Hòa!

- Rứa là về đại đội một, tiểu đoàn ba. Hôm qua hy sinh nhiều lắm. Chiều nay vừa bổ sung lính mới. Họ đang mai táng liệt sĩ và sửa chữa hầm hào chuẩn bị đợt đánh chặn mới… Cho nên anh không phải vội, cứ băng vết thương cho o ni cẩn thận rồi hãy đi.

Nhóm du kích đi rồi, Thắng băng lại vết thương trên trán cho cô gái. Trong đêm tối, thỉnh thoảng có ánh chớp đạn pháo từ phía Thành Cổ khiến Thắng nhận ra cô du kích còn rất trẻ, còn trẻ hơn cả Thắng, xinh xắn và rắn rỏi. Cô bị thương nhẹ nên vẫn nói chuyện bình thường, giọng nói của cô ríu rít như chim hót. Thắng vừa băng vết thương cho cô vừa bị cuốn vào câu chuyện trận mạc của cô, lúc chia tay Thắng quên cả hỏi tên và địa chỉ quê hương cô. Lúc bấy giờ điều ấy không quan trọng, nhưng sau này có điều kiện thăm lại chiến trường xưa mấy lần Thắng đều tìm về chính mảnh đất này tìm gặp cô mà chẳng ai biết cô, khi ấy Thắng mới cảm thấy hối tiếc và tự trách mình vô tâm.

Đỗ Đức Thắng đến thôn An Lộng, xã Triệu Hòa vào lúc trời tảng sáng. Những người lính cũng vừa chôn cất xong các liệt sĩ. Những thương binh nặng cũng đã được chuyển hết ra bờ sông Thạch Hãn chờ thuyền chở sang bên kia, đưa đến trạm phẫu. Đại đội vừa được tăng cường một số lính trẻ, họ đang bắt tay vào chuẩn bị trận địa, sửa chữa lại hầm hào bị lún sập và xiêu vẹo trong năm đợt tiến công của địch mấy ngày qua. Thắng được phân công ở căn hầm chữ A ngay cạnh hầm của ban chỉ huy đại đội. Thắng vừa đeo máy chui vào hầm thì bỗng nghe tiếng phản lực AD6 rú trên đầu. Lại có những tiếng đại bác từ phía Cửa Việt câu vào nghe thùng thùng như gõ trống. Căn hầm của Thắng chao đảo rồi như bị bốc lên vật xuống. Thắng thấy đau nhói khắp người rồi anh ngất đi, không biết gì nữa. Ba ngày sau Thắng mới tỉnh lại, biết rằng căn hầm bị sập đè lên anh. Đồng đội vừa thông báo cho anh biết nơi anh đang điều trị đây chính là đội phẫu 52.

- Đại đội một tuy có thương vong nhưng đã đánh chặn thành công một đợt tiến công quy mô của địch, tiêu diệt hàng trăm tên vừa lính dù vừa lính thủy đánh bộ - người lính tải thương thông báo với Thắng.

Ở trạm phẫu điều trị thêm mấy hôm, Thắng được chuyển ra quân y viện 41 trên đất Quảng Trạch, Quảng Bình. Vết thương đã ổn, nhưng không còn đủ sức chiến đấu, Thắng được ra bắc, về đoàn an dưỡng 87, rồi chuyển về trại thương binh tỉnh Hà Tây (trước đây). Ít năm sau Thắng được xuất ngũ về quê.

Nhìn ngắm tòa nhà mới xây hai tầng như biệt thự khang trang, tôi hỏi Thắng:

- Chế độ trợ cấp thương binh ba triệu một tháng mà sao anh xây được căn nhà to thế? Có bí quyết gì không?

- Các con tài trợ cả đấy! Số tôi được nhờ con.

- Anh có mấy cháu?

- Năm đứa. Hai trai, ba gái. Kể ra thời hiện đại mà đẻ thế là hơi nhiều - Thắng nói - Nhưng có lẽ vì tôi chứng kiến người chết nhiều quá nên có tâm lý muốn sinh nhiều con để ổn định cái tâm trạng. Cũng rất may cho tôi là các cháu đều ngoan. Bốn cháu tốt nghiệp đại học. Làm kinh doanh nên cuộc sống đều khá giả. Thương bố mẹ đầu bạc trắng rồi mà vẫn phải ở trong căn nhà xập xệ, năm ngoái các cháu bảo nhau gom góp xây kỷ niệm một nếp nhà cho vợ chồng tôi dưỡng già.

Tôi bắt tay chúc mừng anh chị. Vậy là máu của anh đổ ở chiến trường, mồ hôi của chị bị vắt kiệt ở hậu phương đã được các con anh chị ghi nhớ để tu chí làm người, thành những công dân có ích.

Có thể bạn quan tâm

Nhà báo Nguyễn Trọng Định - người đầu tiên từ bên phải qua. Ảnh tư liệu của Nhà báo Trần Mai Hạnh

Người ra đi từ gốc đa Hàng Trống

Trong bức ảnh được chụp ngày 14/7/1968 tại bộ phận tiền phương Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Đà thuộc địa bàn huyện Duy Xuyên có tám nhà báo thì sau đó bốn người là liệt sĩ, một người là thương binh nặng. Người hy sinh đầu tiên là nhà báo-nhà thơ Nguyễn Trọng Định, phóng viên Báo Nhân Dân, cùng trong tổ phóng viên vào chiến trường Quảng Đà một ngày với tôi", nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh hồi tưởng.
Lần họp lớp gần nhất là chuyến thăm Khu di tích lịch sử Bạch Đằng (Thủy Nguyên, TP Hải Phòng).

Trưởng thành nhờ đất nước và cùng đất nước

Tháng 6/2022 này, sinh viên Khoa Ngữ văn, khóa VIII, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) kỷ niệm 55 năm ra trường. Với lịch sử đất nước, 55 năm không dài. Nhưng quãng thời gian đó đủ để một thế hệ đi từ khởi điểm của tuổi thanh xuân đến cận kề những bậc thang cuối của đời người.

Người dân xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận thu hoạch trái thanh long. Ảnh: Duy Hiển

Ân tình miền cát

Mảnh vườn đang lên xanh-cái mầu xanh từ những cành thanh long vươn dài-của Quân là hình ảnh sống động và lưu lại đầu tiên trong tâm trí tôi khi về với náo nức đất trời Bình Thuận, trong những ngày cuối năm nhiều cảm xúc.

Nhà báo Trần Lâm.

Mùa thu với hai nhà báo lão thành

Kể từ mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đội ngũ báo chí cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đông về số lượng và tăng về chất lượng.

Nụ cười ấm giữa ngày giông bão

Thành phố lại vào mùa mưa. Những cơn mưa dầm dề suốt ngày cùng con số ca nhiễm tăng cao, thêm nhiều hình ảnh cay sống mũi, đỏ hoe mắt khiến người thành phố thao thức.

Người dân hẻm 17, đường Gò Dầu (phường Tân Quý, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh) đi chợ tại "Gian hàng 0 đồng sẻ chia cùng khu cách ly". Ảnh: HUẾ XUÂN

Sài Gòn ân nghĩa

Không ai hiểu rõ Sài Gòn bằng chính người Sài Gòn. Sự hào sảng, nghĩa tình, lạc quan của thành phố này đã khiến cái sự “trọng thương” mà người nơi khác ví von đã không còn là một cảm thán tội nghiệp. Tự bản thân người nơi đây sẽ biến nó thành một sự khích lệ, động viên, là một ân tình lớn lao, mà có lẽ phải trải qua “mùa dịch bệnh”, người ta mới càng thật sự thấm thía hết ý nghĩa của từ này.

Trái tim của tôi

Trái tim của tôi

Sau nhà tôi hồi xưa có một cái khe núi. Nhà tôi đã ở gần khe núi rồi, nhưng vẫn chưa phải là nhà cuối cùng. Cuối cùng là nhà một người Tày, nằm tận cửa khe núi luôn. Vào mùa đông, khe gần như cạn, những tảng đá to như lưng trâu nằm trơ trơ ra. Nhưng cuối xuân, đầu hè, khi những tiếng sấm bắt đầu ì ùng và mưa rào trút xuống, thì nước bắt đầu chảy len lỏi qua những khe đá, và đầy dần lên. Nếu mưa kéo dài chừng nửa ngày thì dòng suối sẽ như một con thuồng luồng dài ngoằng, dữ dội, lạnh lùng, cuốn phăng theo nó tất cả những gì nằm lổng chổng ven đường.

Miền sen và làng cổ

Làng cổ Nha Xá, xã Mộc Nam, Hà Nam nổi tiếng với những nếp nhà cổ và nghề dệt lụa. Người làng tự hào lắm một vùng quê yên bình, nằm giữa hệ thống ao, đầm sen rộng bát ngát.

11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN

Chiều 30 tháng 4, chúng tôi đến Sài Gòn

14 giờ ngày 30/4/1975, trên chiếc xe Jeep "lùn", chúng tôi - nhóm phóng viên báo Chiến sĩ Giải phóng - Quân đoàn 2, vào tới dinh Ðộc Lập. Lúc này sân trước Dinh đang ồn ã với số đông phóng viên báo chí và cán bộ, chiến sĩ ta.

Minh họa: THU HÀ

Cúi đầu trước núi

Tự dưng lúc này đây, khi đang ngồi dưới chân một dãy núi Tây Nguyên mà trong tôi lại trào lên cảm thức về những ngọn núi. Ðó có thể là nỗi ám ảnh mang mạch thở linh sơn đâu đó trong tâm tưởng. Ngắm núi mà muốn thốt lên lời tự lòng mình, ơi những chóp đỉnh cao vời, cho tôi xin được ngàn lần cúi đầu ngưỡng vọng…    

Tinh khôi hoa trắng

Về quê tôi dịp này có thể dễ dàng bắt gặp ở khắp các lối ngõ, bờ ao bừng lên một mầu trắng muốt tinh khôi của hoa dành dành. Mùi hương ngọt nồng dẫn lối đưa đường, dụ bao bướm ong dập dìu tụ tìm hút mật. Khi dành dành vào kỳ trổ hoa, ấy là mùa xuân cũng chuẩn bị khép lại.

Hà Nội mùa cây thay lá

Hà Nội mỗi mùa mang một sắc, mỗi con phố nhuốm một màu, thảy tất bốn mùa đều để lại cho ta cảm nhận những nét đẹp bâng khuâng trong sâu thẳm lòng mình mà khó có nơi nào có được. 

Cải vàng gọi nắng triền sông

Cuối năm, gió đã chuyển mình, cái rét len lỏi đâu đó trong từng nhành cây, ngọn cỏ. Hoa cải vào mùa, xôn xao rực vàng nơi triền sông vắng. Buổi chiều bỗng dài ra, lũ bướm ong tíu tít, mải mê bay lượn đến quên cả lối về.

Những ô cửa phố

Dịp cuối thu đầu đông, hương hoa sữa nồng nàn tỏa. Tôi có thói quen dạo phố một mình chỉ để nhẩn nha ngắm những ô cửa sổ, đôi khi ngỡ ngàng bởi chỉ là ô cửa sổ thôi cũng quá nhiều kiểu dáng thiết kế và mầu sắc trang trí. Rất nhiều ô cửa sổ nhìn ra đường, bên những ban-công được trồng nhiều khóm hoa xinh xắn. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cửa sổ có lẽ cũng là đôi mắt của ngôi nhà. Cửa sổ tạo mỹ quan cho không gian chung cả tuyến phố. Ở Hà Nội, các phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Phan Ðình Phùng, Nguyễn Gia Thiều… còn hiện diện nhiều ô cửa sổ nhuốm thời gian. Ở đó còn nhiều biệt thự cổ kính, những bức tường loang mầu hoài niệm, khi ấy những ô cửa như cũng trầm ngâm ưu tư, gợi nhắc về bao kỷ niệm xưa xa. Giữa một thành phố đông đúc, có lúc tắc đường đến ngộp thở, thì mỗi ô cửa này như những nốt nhạc trầm, đọng lại vẻ thi vị, thân thương

Mùa đông của cha

Ký ức sâu đậm trong chị về cha, gắn với thời tiết theo mùa. Tuổi ấu thơ của chị là những đêm hè lặng gió, oi nồng. Cha ngồi quạt đổi tay cho ba chị em đến khuya. Nhiều đêm, cha gần như không ngủ. Dạo ấy, điện là thứ xa xỉ, chỉ được dùng để thắp sáng trong mấy ngày Tết; còn lại, đèn dầu “làm bạn” với mọi nhà quanh năm, suốt tháng.

Bán thổ cẩm ở chợ Si Ma Cai. Ảnh: TUẤN LỢI

Si Ma Cai lên phố

Tháng 11-1966, xã Si Ma Cai (Lào Cai) được thành lập trên cơ sở ba thôn, gồm Phố Thầu, Phố Cũ, Phố Mới. Gọi là Phố nhưng thực chất ở đây, ngoài phiên chợ chủ nhật đông đúc, một dãy phố người Hoa ở phố cũ, Đồn Biên phòng, thì chỉ có mấy ngôi nhà gỗ dựng rải rác, vài cửa hàng mua bán đổi chác nông, lâm sản và vật dụng thiết yếu… song ba cái tên đã thể hiện khát khao lên phố của đồng bào. Qua nhiều năm xây dựng, phát triển, ngày 11-2-2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra quyết định thành lập thị trấn Si Ma Cai thuộc huyện Si Ma Cai.

Đường hoa

Trời dịu nắng rủ tôi về làng, với những thân thương mà suốt thời tuổi thơ tôi và bạn bè đồng lứa có những trò chơi trẻ dại. Bao năm xa quê, có người phần nào “mất gốc” nhưng có những người vẫn đong đầy những ô vuông ký ức về làng như một thứ tài sản, soi mình vào hình ảnh của làng, của phố hay những cung đường đi qua để trân quý những vẻ đẹp thân thương, và để sống tốt hơn.

Vết thương

Vết thương

Trung tuần tháng 7-1972, trong trận phục kích đánh vào tiểu đoàn Bảo an của địch đến cứu viện cho đồn Tô Ma đang bị Tiểu đoàn 309 của ta bao vây, tôi bị thương khá nặng. Hôm đó, tôi vừa cầm khẩu AK bật dậy, thì một quả M79 của địch nổ phía trước tôi chừng chục mét.

Nước mắt của nữ chiến binh

Cô rất hay khóc. Tôi cũng hiểu. Dẫu cô nam tính, dẫu cô theo cách gọi cường điệu của tôi là một nữ tướng thì tướng vẫn có nước mắt.

Ngôi sao tháng bảy

Ngày tháng bảy bời bời xúc động khi cùng các bạn trẻ đoàn thanh niên của xã đến thăm mẹ. Mẹ là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, là niềm tự hào của xã Anh hùng quê tôi - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu nước, đã dâng hiến nhiều người con ưu tú cho Tổ quốc. Người dân quê chúng tôi vẫn thân thương gọi mẹ Hiền là bà Hến. Mẹ Hiền hiền lắm. Hiền như hoa trái trong vườn. Hiền như tên gọi mà mỗi khi cất lên đã chất chứa niềm nhân hậu.

Hoa ngọc lan vườn mẹ

Nhà tôi ở trong phố nên đất rất chật, mặt trước và mặt sau của ngôi nhà dài như ống tay áo, mẹ tôi cho người ta thuê để bán hàng. Ngõ dẫn vào khu giữa ngôi nhà nơi gia đình tôi sinh sống nhỏ như sợi chỉ khâu ở viền ống tay áo.

 Tượng đài Bác Hồ trên đảo Cô Tô (Quảng Ninh) Ảnh: Phạm Học

Mãi còn lưu dấu

1. Năm 1970, Tòa soạn báo Vùng mỏ chúng tôi được ông Ðỗ Thế Việt, cán bộ kháng chiến hoạt động ở khu mỏ Hồng Gai chuyển tới tấm thiếp của Bác Hồ gửi công nhân khu mỏ Hồng Gai năm 1953. Trong thư gửi kèm, ông Việt viết: "… Năm 1951, Công đoàn đặc khu Hồng Gai chúng tôi có gửi lên Việt Bắc biếu Bác Hồ một chiếc màn (quà biếu của một chị công nhân) và một bức tượng Bác bằng than đá do anh Trần Văn Mão, thợ mỏ Cẩm Phả tạc trong những ngày anh làm phu xe cuốc. Thì tháng 3-1953, Công đoàn đặc khu Hồng Gai nhận được tấm thiếp này của Bác Hồ từ Việt Bắc gửi về cảm ơn. Nay tôi thấy cần phải gửi về cho các đồng chí, mong được giới thiệu lại với công nhân khu mỏ về một bút tích quý giá của Bác…".

Nhật ký của một người Công giáo

Nhật ký của một người Công giáo

Cuối cùng tôi cũng đã tìm được nhà anh Triệu ở một phố hẻm quận Tân Bình. Sài Gòn mới được giải phóng. Thành phố tôi lần đầu đặt chân, nhưng lòng thì đã đến.

Những mùa hoa đậu biếc

Tôi nhận ra mầu tím hoa đậu biếc đang lấp lánh trong ly trà trước mặt mình. Trà hoa đậu biếc. Mầu tím ấy, thức dậy ký ức một thời tuổi thơ tôi trong vắt, bình yên.

Công suất các khu xử lý rác hiện nay chưa đáp ứng để thu gom và xử lý triệt để rác thải trên địa bàn thành phố.

Gỡ nút thắt quy hoạch, xử lý rác thải ở Hà Nội

Kỳ 2: Rà soát năng lực, đẩy nhanh tiến độ thực hiện

(Tiếp theo và hết)

Trong Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt từ tháng 10-2016, đã tính đến sự phối hợp vùng trong xử lý rác thải một số tỉnh chung quanh Thủ đô. Vấn đề quan trọng nhất là sự đồng thuận của nhân dân, nỗ lực của các cơ quan chức năng, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện dự án.

Những sắc thái của trường ca

Nghĩ về trường ca Việt Nam hiện đại, tôi rất tâm đắc với ý kiến của TS Chu Văn Sơn: "Khi thơ trữ tình muốn trình bày những suy cảm về những vận động lớn lao, thậm chí, kỳ vĩ của đời sống bằng một hình thức lớn, khi ấy trường ca xuất hiện. Nói gọn hơn, khi thơ trữ tình muốn chiếm lĩnh thực tại ở cấp độ cái kỳ vĩ thì trường ca bắt đầu lên tiếng". Sau ngày đất nước thống nhất, trường ca ngày càng nở rộ. Có một thế hệ những nhà thơ đã đi qua chiến tranh và tìm đến trường ca như một cuộc đại kiểm kê, một lời tâm sự lớn trước những biến cố lịch sử: Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Nguyễn Ðức Mậu, Từ Nguyên Tĩnh, Lê Mạnh Tuấn, Phạm Hồ Thu, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo, Trần Anh Thái, Thi Hoàng… Và, những người trẻ tuổi hơn đang tiếp nối mạch nguồn thể loại ấy hôm nay: Nguyễn Quang Hưng, Ðoàn Văn Mật, Lý Hữu Lương, Thy Nguyên…