Trái tim của tôi

Sau nhà tôi hồi xưa có một cái khe núi. Nhà tôi đã ở gần khe núi rồi, nhưng vẫn chưa phải là nhà cuối cùng. Cuối cùng là nhà một người Tày, nằm tận cửa khe núi luôn. Vào mùa đông, khe gần như cạn, những tảng đá to như lưng trâu nằm trơ trơ ra. Nhưng cuối xuân, đầu hè, khi những tiếng sấm bắt đầu ì ùng và mưa rào trút xuống, thì nước bắt đầu chảy len lỏi qua những khe đá, và đầy dần lên. Nếu mưa kéo dài chừng nửa ngày thì dòng suối sẽ như một con thuồng luồng dài ngoằng, dữ dội, lạnh lùng, cuốn phăng theo nó tất cả những gì nằm lổng chổng ven đường.

Trái tim của tôi

Ngôi nhà của hai vợ chồng kia là nhà sàn, nước lũ về là dưới gầm sàn như cái ao luôn. Nhưng lũ ở rừng không kéo dài, chỉ một lúc, một vài giờ là biến mất. Để lại những tảng đá trơ trọi, trắng toát. Miếng đất bằng phẳng mà họ có chỉ đủ dựng nhà, một khoảnh sân nhỏ để thả gà lợn, còn thì bước một bước là dẫm thẳng xuống suối. Chính là con suối chảy ra từ khe núi kia. Ông chồng tên là Biền, cậu con trai lớn tên là Bình. Vì thế cả làng gọi theo tên con là vợ chồng nhà Bình Biền. Bà vợ thì đến tận bây giờ tôi vẫn không biết tên. Vốn dĩ là cả ngôi làng Tày ấy, khi các cô gái về làm dâu nhà chồng, rồi làm mẹ, thì cái tên cha mẹ đặt cho đã biến mất gần như vĩnh viễn. Nó chỉ xuất hiện trở lại trên giấy tờ khi bọn trẻ con đi học hoặc đi làm.

Bà vợ Bình Biền tầm dưới bốn mươi tuổi. Da trắng, tóc dài và mềm, eo nhỏ, hông nở. Gái Tày đều thế, đẹp mướt mát như những bông bạch yến. Chợt nhớ, mới hôm qua, một bạn đọc nhắn hỏi tôi: Chị có phải là một bông bạch yến không? Sao chị có thể viết về bông bạch yến lấp lánh thế? Tôi không phải là một bông bạch yến. Ví với bông bạch yến, chỉ có thể là con gái Tày. Bà Bình Biền chẳng hạn. Trước cửa nhà bà ấy có một bụi bạch yến mọc hoang. Cây bạch yến gần giống với gừng, giềng. Mọc thành bụi, cuống lá xếp lớp thành thân, lá to và dài. Nó mọc ở đấy từ trước lúc hai ông bà dựng nhà. Và cứ đến mùa thì nó lại trổ bông. Tôi thường trèo qua hàng rào nhà mình mỗi khi nhìn thấy bạch yến nở. Bà Bình Biền bảo, cháu thích thì cứ lấy về. Nhưng tôi thương bụi cây. Tôi luôn tin cây nào hoa nào cũng có linh hồn. Và chúng sẽ thật buồn bã nếu như những bông hoa bị tách khỏi cây, như là một đứa bé con như tôi phải tách khỏi mẹ. 

Có lẽ vì sống ở vùng thấp, ruộng nước, khí hậu ôn hòa, ít phải leo núi, nên con gái Tày óng ả hơn hẳn. Bà Bình Biền hay ngồi ôm con trên sàn phơi lúa những buổi trưa hè. Nắng rọi từ trên cao, xuyên qua tán lá dẻ rậm rì xanh biếc, lớt phớt trên gương mặt hai mẹ con. Bà ấy hát, những câu dân ca Tày. Trong ký ức của tôi, tiếng hát ấy trong vắt, thanh thoát, tinh tế, ẩn chứa những buồn phiền rất khó diễn tả. Giống như một giọt sương trong buổi ban mai rơi xuống phiến đá, vỡ ra. Tiếng vỡ của nó nhỏ tới nỗi người ta chỉ có thể cảm mà không thể nghe. Nhưng chỉ cảm thôi mà cũng thấy nhoi nhói một nỗi gì buồn phiền quá. 

Sau này, đi xa rồi, có một lần quay về tôi đến nhà thăm hai ông bà Bình Biền. Lúc ấy tôi đã làm báo, và cứ say sưa đi nhặt nhạnh mọi thứ có trong đời sống của người Tày, người H’Mông, ghi ghi chép chép mà cũng không biết để làm gì. Nhưng cái việc nhặt nhạnh ấy khiến tôi vui thích vô cùng. Bà Bình Biền đã có tóc bạc, tầm ngoài năm mươi. Với phụ nữ Tày thì năm mươi đã là già, đã lên bà nội bà ngoại cả rồi. Tôi hỏi ngày xưa cô hát những câu gì mà cháu nghe buồn quá, dù chẳng hiểu gì cả. Bà mỉm cười, hỏi thế thì làm sao cô nhớ được. Lại hỏi, thế hồi trẻ cô hay hát gì? Hát những gì bọn con trai thích nghe. Ôi, thực lòng là tôi thấy câu trả lời thú vị quá. Bà Bình Biền lấy đàn tính ra, gảy một khúc, hát một khúc. Rồi bà đọc thơ. Bố bà vốn là người biết chữ Nho bên Cao Bằng, nên con cái cũng được dạy dỗ ít nhiều. Tôi có biết bài thơ mà bà Bình Biền đang đọc: Ôi người là cha mẹ/Công lao cúc dục lớn như biển cả/Đinh ninh nhớ cây tang cây tứ/Ta thất lễ vì thiếu tên trên bảng mai...

Đây là bản dịch bài Cố hương từ của Lê Thế Khanh, một tác giả người Tày Cao Bằng. Ông sống vào khoảng cuối thế kỷ thứ 4, đầu thế kỷ thứ 5. Bài thơ ấy có tư liệu cho là bài thơ chữ Hán ra đời sớm nhất ở Việt Nam. 

Về bài thơ thì tôi không ngạc nhiên vì trong quá trình lọ mọ tìm hiểu đã biết từ trước, nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên nhất là người đọc nó lại là bà Bình Biền. Một người phụ nữ mà từ lúc trở thành hàng xóm nhà tôi cho đến bấy giờ chỉ thấy lên nương, ra ruộng, đẻ con chăm con, đêm đêm vừa xay lúa vừa trông chảo cám lợn. 

Tôi ngồi yên lặng trên sàn phơi lúa, dựa lưng vào cái cột cao ở góc sàn và buông thõng chân xuống dưới. Bên dưới là dòng nước đang rí rách chảy, trong leo lẻo, và mấy con ngan với mảng lưng đen thui đang quẫy đạp. Bà Bình Biền cứ nhẩn nha đọc thơ, rồi lẩm nhẩm hát. Tôi không hình dung được nếu như người Tày nói chung, phụ nữ, con gái Tày nói riêng mà không có dân ca Tày, không có đàn tính, không có hát then thì như thế nào. Giai điệu của then không khó, ai hát cũng được. Tôi cũng hát được. Nó không đòi hỏi quá cao về kỹ thuật hay phải có âm vực rộng. Nó cứ nhẩn nha rí rách loanh quanh trong đời sống, nhưng nó khiến cho tâm hồn người ta được bay bổng, vượt qua những vách núi hay những nếp nhà hàng trăm năm tuổi. Có lẽ vậy!

Khi tôi từ xa quay về làng, tôi nhận ra mỗi năm, từng năm một, những nếp nhà với mái lá cọ dày hàng gang tay đang lần lượt biến mất. Ngôi làng tuyệt đẹp của tôi, với những thửa ruộng thoai thoải biếc xanh; với những nếp nhà nằm nép sát chân núi, quanh nhà là hàng rào mắt cáo, bên trong trồng đầy các loại rau; với những cái cọn nước cứ cọt kẹt cọt kẹt, cả những cái cối nước nữa, thì thụp suốt ngày đêm... đang biến mất. Tôi đã từng ngồi hàng giờ nhìn cái cối nước. Một đầu là máng đựng nước, một đầu là chày dộng thẳng xuống cối mỗi khi đầu kia nước đầy, trĩu xuống, nước trút ra, và đầu này rơi bụp xuống. Nhịp nhàng, miệt mài, không bao giờ mệt mỏi. Cứ ào, xòa, rồi bụp. Lại ào, xòa, bụp. Đúng cái nhịp điệu ấy. 

Núi rừng, cánh đồng và ngôi làng như trái tim ấm áp luôn đập dịu dàng trong ký ức đẹp đẽ của tôi.

Có thể bạn quan tâm

Nhà báo Nguyễn Trọng Định - người đầu tiên từ bên phải qua. Ảnh tư liệu của Nhà báo Trần Mai Hạnh

Người ra đi từ gốc đa Hàng Trống

Trong bức ảnh được chụp ngày 14/7/1968 tại bộ phận tiền phương Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Đà thuộc địa bàn huyện Duy Xuyên có tám nhà báo thì sau đó bốn người là liệt sĩ, một người là thương binh nặng. Người hy sinh đầu tiên là nhà báo-nhà thơ Nguyễn Trọng Định, phóng viên Báo Nhân Dân, cùng trong tổ phóng viên vào chiến trường Quảng Đà một ngày với tôi", nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh hồi tưởng.
Lần họp lớp gần nhất là chuyến thăm Khu di tích lịch sử Bạch Đằng (Thủy Nguyên, TP Hải Phòng).

Trưởng thành nhờ đất nước và cùng đất nước

Tháng 6/2022 này, sinh viên Khoa Ngữ văn, khóa VIII, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) kỷ niệm 55 năm ra trường. Với lịch sử đất nước, 55 năm không dài. Nhưng quãng thời gian đó đủ để một thế hệ đi từ khởi điểm của tuổi thanh xuân đến cận kề những bậc thang cuối của đời người.

Người dân xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận thu hoạch trái thanh long. Ảnh: Duy Hiển

Ân tình miền cát

Mảnh vườn đang lên xanh-cái mầu xanh từ những cành thanh long vươn dài-của Quân là hình ảnh sống động và lưu lại đầu tiên trong tâm trí tôi khi về với náo nức đất trời Bình Thuận, trong những ngày cuối năm nhiều cảm xúc.

Nhà báo Trần Lâm.

Mùa thu với hai nhà báo lão thành

Kể từ mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đội ngũ báo chí cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đông về số lượng và tăng về chất lượng.

Nụ cười ấm giữa ngày giông bão

Thành phố lại vào mùa mưa. Những cơn mưa dầm dề suốt ngày cùng con số ca nhiễm tăng cao, thêm nhiều hình ảnh cay sống mũi, đỏ hoe mắt khiến người thành phố thao thức.

Người dân hẻm 17, đường Gò Dầu (phường Tân Quý, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh) đi chợ tại "Gian hàng 0 đồng sẻ chia cùng khu cách ly". Ảnh: HUẾ XUÂN

Sài Gòn ân nghĩa

Không ai hiểu rõ Sài Gòn bằng chính người Sài Gòn. Sự hào sảng, nghĩa tình, lạc quan của thành phố này đã khiến cái sự “trọng thương” mà người nơi khác ví von đã không còn là một cảm thán tội nghiệp. Tự bản thân người nơi đây sẽ biến nó thành một sự khích lệ, động viên, là một ân tình lớn lao, mà có lẽ phải trải qua “mùa dịch bệnh”, người ta mới càng thật sự thấm thía hết ý nghĩa của từ này.

Miền sen và làng cổ

Làng cổ Nha Xá, xã Mộc Nam, Hà Nam nổi tiếng với những nếp nhà cổ và nghề dệt lụa. Người làng tự hào lắm một vùng quê yên bình, nằm giữa hệ thống ao, đầm sen rộng bát ngát.

11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN

Chiều 30 tháng 4, chúng tôi đến Sài Gòn

14 giờ ngày 30/4/1975, trên chiếc xe Jeep "lùn", chúng tôi - nhóm phóng viên báo Chiến sĩ Giải phóng - Quân đoàn 2, vào tới dinh Ðộc Lập. Lúc này sân trước Dinh đang ồn ã với số đông phóng viên báo chí và cán bộ, chiến sĩ ta.

Minh họa: THU HÀ

Cúi đầu trước núi

Tự dưng lúc này đây, khi đang ngồi dưới chân một dãy núi Tây Nguyên mà trong tôi lại trào lên cảm thức về những ngọn núi. Ðó có thể là nỗi ám ảnh mang mạch thở linh sơn đâu đó trong tâm tưởng. Ngắm núi mà muốn thốt lên lời tự lòng mình, ơi những chóp đỉnh cao vời, cho tôi xin được ngàn lần cúi đầu ngưỡng vọng…    

Tinh khôi hoa trắng

Về quê tôi dịp này có thể dễ dàng bắt gặp ở khắp các lối ngõ, bờ ao bừng lên một mầu trắng muốt tinh khôi của hoa dành dành. Mùi hương ngọt nồng dẫn lối đưa đường, dụ bao bướm ong dập dìu tụ tìm hút mật. Khi dành dành vào kỳ trổ hoa, ấy là mùa xuân cũng chuẩn bị khép lại.

Hà Nội mùa cây thay lá

Hà Nội mỗi mùa mang một sắc, mỗi con phố nhuốm một màu, thảy tất bốn mùa đều để lại cho ta cảm nhận những nét đẹp bâng khuâng trong sâu thẳm lòng mình mà khó có nơi nào có được. 

Cải vàng gọi nắng triền sông

Cuối năm, gió đã chuyển mình, cái rét len lỏi đâu đó trong từng nhành cây, ngọn cỏ. Hoa cải vào mùa, xôn xao rực vàng nơi triền sông vắng. Buổi chiều bỗng dài ra, lũ bướm ong tíu tít, mải mê bay lượn đến quên cả lối về.

Những ô cửa phố

Dịp cuối thu đầu đông, hương hoa sữa nồng nàn tỏa. Tôi có thói quen dạo phố một mình chỉ để nhẩn nha ngắm những ô cửa sổ, đôi khi ngỡ ngàng bởi chỉ là ô cửa sổ thôi cũng quá nhiều kiểu dáng thiết kế và mầu sắc trang trí. Rất nhiều ô cửa sổ nhìn ra đường, bên những ban-công được trồng nhiều khóm hoa xinh xắn. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cửa sổ có lẽ cũng là đôi mắt của ngôi nhà. Cửa sổ tạo mỹ quan cho không gian chung cả tuyến phố. Ở Hà Nội, các phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Phan Ðình Phùng, Nguyễn Gia Thiều… còn hiện diện nhiều ô cửa sổ nhuốm thời gian. Ở đó còn nhiều biệt thự cổ kính, những bức tường loang mầu hoài niệm, khi ấy những ô cửa như cũng trầm ngâm ưu tư, gợi nhắc về bao kỷ niệm xưa xa. Giữa một thành phố đông đúc, có lúc tắc đường đến ngộp thở, thì mỗi ô cửa này như những nốt nhạc trầm, đọng lại vẻ thi vị, thân thương

Mùa đông của cha

Ký ức sâu đậm trong chị về cha, gắn với thời tiết theo mùa. Tuổi ấu thơ của chị là những đêm hè lặng gió, oi nồng. Cha ngồi quạt đổi tay cho ba chị em đến khuya. Nhiều đêm, cha gần như không ngủ. Dạo ấy, điện là thứ xa xỉ, chỉ được dùng để thắp sáng trong mấy ngày Tết; còn lại, đèn dầu “làm bạn” với mọi nhà quanh năm, suốt tháng.

Bán thổ cẩm ở chợ Si Ma Cai. Ảnh: TUẤN LỢI

Si Ma Cai lên phố

Tháng 11-1966, xã Si Ma Cai (Lào Cai) được thành lập trên cơ sở ba thôn, gồm Phố Thầu, Phố Cũ, Phố Mới. Gọi là Phố nhưng thực chất ở đây, ngoài phiên chợ chủ nhật đông đúc, một dãy phố người Hoa ở phố cũ, Đồn Biên phòng, thì chỉ có mấy ngôi nhà gỗ dựng rải rác, vài cửa hàng mua bán đổi chác nông, lâm sản và vật dụng thiết yếu… song ba cái tên đã thể hiện khát khao lên phố của đồng bào. Qua nhiều năm xây dựng, phát triển, ngày 11-2-2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra quyết định thành lập thị trấn Si Ma Cai thuộc huyện Si Ma Cai.

Đỗ Đức Thắng (bên phải) và Hồ Văn Quang trong trận tiến công Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, Quảng Trị, tháng 4-1970. Ảnh: ĐOÀN CÔNG TÍNH

Người trong ảnh

Đến thăm các bảo tàng lịch sử ở Hà Nội và Thành cổ Quảng Trị, tôi đã nhìn thấy bức ảnh này: Hai người lính thông tin đang trong trận đánh đối mặt trực diện lực lượng địch. 

Đường hoa

Trời dịu nắng rủ tôi về làng, với những thân thương mà suốt thời tuổi thơ tôi và bạn bè đồng lứa có những trò chơi trẻ dại. Bao năm xa quê, có người phần nào “mất gốc” nhưng có những người vẫn đong đầy những ô vuông ký ức về làng như một thứ tài sản, soi mình vào hình ảnh của làng, của phố hay những cung đường đi qua để trân quý những vẻ đẹp thân thương, và để sống tốt hơn.

Vết thương

Vết thương

Trung tuần tháng 7-1972, trong trận phục kích đánh vào tiểu đoàn Bảo an của địch đến cứu viện cho đồn Tô Ma đang bị Tiểu đoàn 309 của ta bao vây, tôi bị thương khá nặng. Hôm đó, tôi vừa cầm khẩu AK bật dậy, thì một quả M79 của địch nổ phía trước tôi chừng chục mét.

Nước mắt của nữ chiến binh

Cô rất hay khóc. Tôi cũng hiểu. Dẫu cô nam tính, dẫu cô theo cách gọi cường điệu của tôi là một nữ tướng thì tướng vẫn có nước mắt.

Ngôi sao tháng bảy

Ngày tháng bảy bời bời xúc động khi cùng các bạn trẻ đoàn thanh niên của xã đến thăm mẹ. Mẹ là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, là niềm tự hào của xã Anh hùng quê tôi - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu nước, đã dâng hiến nhiều người con ưu tú cho Tổ quốc. Người dân quê chúng tôi vẫn thân thương gọi mẹ Hiền là bà Hến. Mẹ Hiền hiền lắm. Hiền như hoa trái trong vườn. Hiền như tên gọi mà mỗi khi cất lên đã chất chứa niềm nhân hậu.

Hoa ngọc lan vườn mẹ

Nhà tôi ở trong phố nên đất rất chật, mặt trước và mặt sau của ngôi nhà dài như ống tay áo, mẹ tôi cho người ta thuê để bán hàng. Ngõ dẫn vào khu giữa ngôi nhà nơi gia đình tôi sinh sống nhỏ như sợi chỉ khâu ở viền ống tay áo.

 Tượng đài Bác Hồ trên đảo Cô Tô (Quảng Ninh) Ảnh: Phạm Học

Mãi còn lưu dấu

1. Năm 1970, Tòa soạn báo Vùng mỏ chúng tôi được ông Ðỗ Thế Việt, cán bộ kháng chiến hoạt động ở khu mỏ Hồng Gai chuyển tới tấm thiếp của Bác Hồ gửi công nhân khu mỏ Hồng Gai năm 1953. Trong thư gửi kèm, ông Việt viết: "… Năm 1951, Công đoàn đặc khu Hồng Gai chúng tôi có gửi lên Việt Bắc biếu Bác Hồ một chiếc màn (quà biếu của một chị công nhân) và một bức tượng Bác bằng than đá do anh Trần Văn Mão, thợ mỏ Cẩm Phả tạc trong những ngày anh làm phu xe cuốc. Thì tháng 3-1953, Công đoàn đặc khu Hồng Gai nhận được tấm thiếp này của Bác Hồ từ Việt Bắc gửi về cảm ơn. Nay tôi thấy cần phải gửi về cho các đồng chí, mong được giới thiệu lại với công nhân khu mỏ về một bút tích quý giá của Bác…".

Nhật ký của một người Công giáo

Nhật ký của một người Công giáo

Cuối cùng tôi cũng đã tìm được nhà anh Triệu ở một phố hẻm quận Tân Bình. Sài Gòn mới được giải phóng. Thành phố tôi lần đầu đặt chân, nhưng lòng thì đã đến.

Những mùa hoa đậu biếc

Tôi nhận ra mầu tím hoa đậu biếc đang lấp lánh trong ly trà trước mặt mình. Trà hoa đậu biếc. Mầu tím ấy, thức dậy ký ức một thời tuổi thơ tôi trong vắt, bình yên.

Công suất các khu xử lý rác hiện nay chưa đáp ứng để thu gom và xử lý triệt để rác thải trên địa bàn thành phố.

Gỡ nút thắt quy hoạch, xử lý rác thải ở Hà Nội

Kỳ 2: Rà soát năng lực, đẩy nhanh tiến độ thực hiện

(Tiếp theo và hết)

Trong Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt từ tháng 10-2016, đã tính đến sự phối hợp vùng trong xử lý rác thải một số tỉnh chung quanh Thủ đô. Vấn đề quan trọng nhất là sự đồng thuận của nhân dân, nỗ lực của các cơ quan chức năng, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện dự án.

Những sắc thái của trường ca

Nghĩ về trường ca Việt Nam hiện đại, tôi rất tâm đắc với ý kiến của TS Chu Văn Sơn: "Khi thơ trữ tình muốn trình bày những suy cảm về những vận động lớn lao, thậm chí, kỳ vĩ của đời sống bằng một hình thức lớn, khi ấy trường ca xuất hiện. Nói gọn hơn, khi thơ trữ tình muốn chiếm lĩnh thực tại ở cấp độ cái kỳ vĩ thì trường ca bắt đầu lên tiếng". Sau ngày đất nước thống nhất, trường ca ngày càng nở rộ. Có một thế hệ những nhà thơ đã đi qua chiến tranh và tìm đến trường ca như một cuộc đại kiểm kê, một lời tâm sự lớn trước những biến cố lịch sử: Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Nguyễn Ðức Mậu, Từ Nguyên Tĩnh, Lê Mạnh Tuấn, Phạm Hồ Thu, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo, Trần Anh Thái, Thi Hoàng… Và, những người trẻ tuổi hơn đang tiếp nối mạch nguồn thể loại ấy hôm nay: Nguyễn Quang Hưng, Ðoàn Văn Mật, Lý Hữu Lương, Thy Nguyên…