Người ra đi từ gốc đa Hàng Trống

Trong bức ảnh được chụp ngày 14/7/1968 tại bộ phận tiền phương Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Đà thuộc địa bàn huyện Duy Xuyên có tám nhà báo thì sau đó bốn người là liệt sĩ, một người là thương binh nặng. Người hy sinh đầu tiên là nhà báo-nhà thơ Nguyễn Trọng Định, phóng viên Báo Nhân Dân, cùng trong tổ phóng viên vào chiến trường Quảng Đà một ngày với tôi", nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh hồi tưởng.
Nhà báo Nguyễn Trọng Định - người đầu tiên từ bên phải qua. Ảnh tư liệu của Nhà báo Trần Mai Hạnh
Nhà báo Nguyễn Trọng Định - người đầu tiên từ bên phải qua. Ảnh tư liệu của Nhà báo Trần Mai Hạnh

Mạch hồi tưởng về người bạn học, người đồng đội, đồng nghiệp thân yêu đã ngã xuống giữa chiến trường Khu 5 khốc liệt… được tiếp nối: "Anh Định hy sinh lúc mờ sáng ngày 26/8/1968, khi một trái pháo nổ gần, mảnh đạn sắc nhọn đâm thủng ba-lô xuyên thẳng vào tim. Máu từ tim chảy theo đường đạn ướt sũng cả ba-lô, máu thấm ướt cả những cuốn sổ nhật ký chiến trường, những cuốn sổ chép thơ…".

Nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh cũng đã kể lại: "Sáng nghe tin Định hy sinh, tôi tất tả lội sông La Thọ (còn gọi là sông Cổ Cò) qua tìm thăm mộ Định vừa được mai táng vội vàng ở xóm Bà Dưa và nhận những kỷ vật của Định do các anh bên tuyên huấn bàn giao. Mảnh giấy ghi vắn tắt: 1 ba-lô, 1 bộ quân phục, 1 áo khoác, 1 đài bán dẫn Trung Quốc, 1 sổ tay phóng viên, 1 bức ảnh. Gia tài Định để lại chỉ có thế. Tôi gói chiếc ba-lô đẫm máu cùng những kỷ vật của Định cất cẩn thận dưới đáy ba-lô của tôi suốt những năm tháng ở chiến trường…".

Thế rồi, nhiều năm sau chiến tranh, những đồng nghiệp cũ, những người bạn cùng thời của Nguyễn Trọng Định đã mang đến giao tặng Trung tâm Thông tin của Báo Nhân Dân bốn cuốn sổ tay. Các cán bộ Trung tâm run run đón nhận với thái độ xúc động và trân trọng. Những cuốn sổ tay của nhà báo-nhà thơ-liệt sĩ Nguyễn Trọng Định mà bao năm nay, những người bạn, đồng nghiệp, đồng đội của anh lưu giữ như những báu vật còn lại của người liệt sĩ đã hòa thân xác giữa chiến trường năm xưa. Bốn cuốn sổ sờn mép, giấy úa, nhưng lạ kỳ thay, nét mực vẫn rói tươi. Ba cuốn sổ nhỏ ngoài bìa ghi các năm: 1960, 1961, 1967; còn cuốn sổ tay lớn nhất hoàn toàn không ghi ngày tháng, những bài thơ chép tay trong sổ cũng không đề thời gian. Đó là những những cuốn sổ chép thơ cuối cùng của Nguyễn Trọng Định. Tôi đã vinh dự được tiếp cận với những "kỷ vật máu" ấy. Đêm chong đèn, tôi thức đọc những vần thơ của anh, có cả những bài chỉ mới ở dạng phác thảo, trong một niềm xúc động khó tả. Thơ của một thời đạn bom, khói lửa. Thơ như máu rút ra từ trái tim mang nhịp đập nóng bỏng của một người chiến sĩ cầm súng và cầm bút đã hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc. Tôi đã đọc thơ anh trong niềm tự hào về một cây bút tài hoa từng ra đi từ gốc đa Hàng Trống. Đọc trong một niềm nuối tiếc, giá như anh không ngã xuống ở tuổi 26 đầy mơ mộng, khát khao…

★★★

Ít nhiều tôi đã biết về anh, và đã đọc đôi bài thơ của Nguyễn Trọng Định trong tập Sắc cầu vồng mà những bạn bè cũ Lớp Ngữ văn khóa 6 - Trường đại học Tổng hợp của anh như Lữ Huy Nguyên, Hữu Nhuận, Anh Ngọc, Mã Giang Lân,… rút ra từ "chiếc ba-lô đẫm máu" để Nhà xuất bản Văn học ấn hành vào năm 1993, nhân kỷ niệm 25 năm ngày Nguyễn Trọng Định hy sinh. Nhưng quả thật, lúc này đây, một mình trong đêm lần giở những trang sổ tay cũ kỹ từ gần 60 năm trước và đọc những vần thơ tươi nét mực của người liệt sĩ, tôi mới cảm thấy trong tâm hồn trào lên một niềm xúc động khó tả. Đọc thơ anh, tôi cảm nhận ở Nguyễn Trọng Định một tâm hồn tươi trẻ, lạc quan, bay bổng vô cùng. Thơ anh viết trong những ngày ở giảng đường, những ngày chưa ra trận là những dòng thơ vui, dạt dào yêu thương. Chứa đựng trong đó là tất cả cảm xúc lý tưởng của một người thanh niên yêu đất nước, yêu quê hương, yêu con người, yêu chế độ đến từng mạch máu. Đó là những dòng thơ khỏe khoắn và tươi vui của một thanh niên khao khát xây dựng cuộc sống mới: "Trên quê mới đời ta nay thấy đẹp/ Với khói đốt nương quấn quýt rừng xa/ Với đàn trâu hợp tác về mỗi tối/ Trên sừng dài còn vướng mấy nhành hoa…" Hoặc: "Trên sàn lán mía vừa mới cắt/ Anh thợ xây cắm cúi học bài/ Vã mồ hôi với từng con tính/ Lật những trang đời thơm phức tương lai…" (Đêm trên thành phố Thái Nguyên). Trong tâm hồn phóng khoáng và lãng mạn ấy ẩn chứa một tình yêu thiên nhiên, hoa lá, trăng sao, mây trời đến ngất ngây: "Vui biết bao là những đêm nghỉ học/ Nằm gối đầu lên sách ngắm trời sao/ Đêm tháng tám trời xanh như mắt ngọc/ Trăng biếng lười chưa chịu bước lên cao…" (Sao). Rồi: "Rừng ơi! Ta ngây ngất say người/ Khi hớp những giọt sương nồng trên lá/ Rừng ơi! Ta đã lả tay rồi/ Vẫn muốn riết những bóng rừng rộn rã…" (Rừng).

Anh đã yêu biết bao cuộc sống thanh bình, yêu da diết đến cả một (Sắc cầu vồng): "Trước những cơn mưa ẩm ướt/ Đột nhiên một áng cầu vồng". Đất nước không bình yên. Nửa nước còn giặc, hai miền lửa cháy. Nguyễn Trọng Định cũng như bao nhà thơ thời chiến, đã phải viết cả những vần thơ căm hận. Những câu thơ này, chỉ có thể thốt lên bằng tất cả trái tim trong những ngày tháng ấy: "Trong cuộc đấu tranh sinh tử hôm nay/ Giặc mang nhắm gan ta ở miền Nam mỗi sáng/ Đêm miền Bắc, Mỹ phá giấc nồng bao làng, bao bản/ Họng súng nào còn có thể bình yên…". Thơ anh viết trong tâm thế của người chiến sĩ trước giờ xung trận. Những vần thơ về (Em nhỏ miền Nam): "Em Bội ơi, anh thấy rồi lửa cháy/ Những em gái yêu luôn miệng hát ca/ Thân đau xé vẫn bừng bừng khúc hát/ Em chết trên môi còn đọng lời thơ…". Từ trong đau đớn và ngút trời căm thù kẻ đã gây nên cuộc chiến tranh tội ác, trái tim giàu thổn thức, yêu thương đã phải đặt tên cho thơ mình là (Bài ca chiến đấu). Những dòng thơ đã nói lên tất cả, giải thích tất cả cảm xúc của người trai Việt trong những tháng ngày ra trận: "Ta đâu phải người không biết ngắm trời xanh/ Không biết vót tre đan thành nôi con trẻ/ Nhưng phải có những hầm chông tre đuổi Mỹ/ Phải có triệu nghìn mắt lửa giữ trời xanh…".

Trong dòng cảm xúc rực lửa ấy, từ gốc đa Hàng Trống, người trai Hà Nội, chàng cử nhân Văn khoa, người phóng viên ngoài tuổi đôi mươi mang ba-lô, khoác khẩu súng, cầm cây bút lên đường. Đánh giặc, viết báo và làm thơ. Cùng với những bài phóng sự, những bản tin từ chiến trường nóng bỏng, hồn thơ Nguyễn Trọng Định vẫn dào dạt tuôn trào. Thơ viết trên đường hành quân. Thơ viết sau trận chống càn. Thơ viết trong phút giải lao giữa giờ tăng gia. Thơ ca ngợi những mảnh đất kiên trung, những con người dũng cảm. Và trong cuộc trường chinh không hẹn ngày về ấy, nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân luôn khắc khoải trong tâm hồn người lính. Trên đường hành quân, anh viết bài thơ (Nước vối quê hương) với cảm xúc dịu dàng, ấm áp: "Chúng con đi giữa rừng đêm mưa xối/ Lòng vẫn ngọt ngào vị nước vối quê hương". Những phút giây tưởng chừng như bình yên, hay là tâm hồn người nghệ sĩ trong anh khao khát bình yên-trong hình ảnh quê hương, người mẹ già, gốc vối già kỷ niệm và người con gái láng giềng: Quê ta đêm nay có nặng hạt mưa giông / Ấm vối đặc chắc vẫn nồng trong gió / Tháng năm rồi vối trong vườn kết nụ / Cô láng giềng còn hái giúp mẹ không?...

GS, Nhà giáo Nhân dân Đinh Văn Đức, một người bạn học Lớp Ngữ văn khóa 6 cùng Nguyễn Trọng Định xúc động: "Mỗi lần nhớ về Định, riêng tôi vẫn hình dung anh qua bài thơ (Nước vối quê hương). Trên bàn làm việc của tôi trong nhiều năm có tấm gỗ chặn giấy vẽ hình Puskin và câu thơ "Và người đời nhớ mãi tên ta", đó là vật kỷ niệm của Định về năm học cuối cùng. Sau này ở mọi nơi, kể cả những chuyến đi xa, nhớ về bè bạn bao giờ (Nước vối quê hương) cũng là một giọt nước thấm mãi trong lòng tôi ký ức về một nhà báo-một người chiến sĩ-một người làm thơ-một người bạn trung thực, hồn hậu…".

Những cuốn sổ chép thơ của liệt sĩ Nguyễn Trọng Định.
Những cuốn sổ chép thơ của liệt sĩ Nguyễn Trọng Định.

★★★

Đọc những vần thơ trong sổ tay di cảo của Nguyễn Trọng Định, tôi vô cùng xúc động và muốn được tìm thêm những tư liệu liên quan đến những ngày cuối cùng của anh ở chiến trường Quảng Đà ác liệt. Thật may, tôi được cung cấp bởi thông tin của nhà báo Trần Mai Hạnh, một đồng đội cũ, từng chứng kiến hoàn cảnh hy sinh của nhà báo, nhà thơ Nguyễn Trọng Định như đã kể ở trên. Từ chiến trường ra, Trần Mai Hạnh chính là người đã mang chiếc ba-lô đẫm máu, bức ảnh anh Định chụp cùng người yêu trước ngày ra trận và những kỷ vật của Nguyễn Trọng Định giao tận tay gia đình và viết tường trình cụ thể về địa điểm và hoàn cảnh hy sinh của anh để Báo Nhân Dân làm thủ tục đề nghị Nhà nước xét công nhận danh hiệu liệt sĩ cho anh. Đến nay đã 56 năm sau ngày anh hy sinh, phần mộ và hài cốt của liệt sĩ Nguyễn Trọng Định vẫn chưa tìm được.

Trong những tháng ngày công tác tại Đà Nẵng, tôi đã có đôi lần lang thang bên dòng sông Cổ Cò và tưởng tượng hình ảnh của nhà báo-nhà thơ Nguyễn Trọng Định trước ngày hy sinh, như lời nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh đã từng miêu tả: "Qua sông, mặc lại quần áo xong Định vẫy chào tôi. Hình ảnh Định mặc bộ đồ bà ba đen, đi chân đất, vai đeo xắc cốt, lưng đeo ba-lô tất tả trong hoàng hôn chạng vạng mãi ám ảnh tôi. Đó là hình ảnh cuối cùng của Định trong cõi nhân gian này…". Những ngày đầu tháng tư năm 2024, trên đường thăm lại chiến trường xưa, nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh đã có thể hạnh ngộ người đồng đội, đồng nghiệp năm nào ở nơi chốn mà họ có thể cùng hồi tưởng về một thời chiến trường khốc liệt mà những câu thơ vẫn ngọt lành "ngụm nước vối quê hương".

Có thể bạn quan tâm

Lần họp lớp gần nhất là chuyến thăm Khu di tích lịch sử Bạch Đằng (Thủy Nguyên, TP Hải Phòng).

Trưởng thành nhờ đất nước và cùng đất nước

Tháng 6/2022 này, sinh viên Khoa Ngữ văn, khóa VIII, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) kỷ niệm 55 năm ra trường. Với lịch sử đất nước, 55 năm không dài. Nhưng quãng thời gian đó đủ để một thế hệ đi từ khởi điểm của tuổi thanh xuân đến cận kề những bậc thang cuối của đời người.

Người dân xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận thu hoạch trái thanh long. Ảnh: Duy Hiển

Ân tình miền cát

Mảnh vườn đang lên xanh-cái mầu xanh từ những cành thanh long vươn dài-của Quân là hình ảnh sống động và lưu lại đầu tiên trong tâm trí tôi khi về với náo nức đất trời Bình Thuận, trong những ngày cuối năm nhiều cảm xúc.

Nhà báo Trần Lâm.

Mùa thu với hai nhà báo lão thành

Kể từ mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đội ngũ báo chí cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đông về số lượng và tăng về chất lượng.

Nụ cười ấm giữa ngày giông bão

Thành phố lại vào mùa mưa. Những cơn mưa dầm dề suốt ngày cùng con số ca nhiễm tăng cao, thêm nhiều hình ảnh cay sống mũi, đỏ hoe mắt khiến người thành phố thao thức.

Người dân hẻm 17, đường Gò Dầu (phường Tân Quý, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh) đi chợ tại "Gian hàng 0 đồng sẻ chia cùng khu cách ly". Ảnh: HUẾ XUÂN

Sài Gòn ân nghĩa

Không ai hiểu rõ Sài Gòn bằng chính người Sài Gòn. Sự hào sảng, nghĩa tình, lạc quan của thành phố này đã khiến cái sự “trọng thương” mà người nơi khác ví von đã không còn là một cảm thán tội nghiệp. Tự bản thân người nơi đây sẽ biến nó thành một sự khích lệ, động viên, là một ân tình lớn lao, mà có lẽ phải trải qua “mùa dịch bệnh”, người ta mới càng thật sự thấm thía hết ý nghĩa của từ này.

Trái tim của tôi

Trái tim của tôi

Sau nhà tôi hồi xưa có một cái khe núi. Nhà tôi đã ở gần khe núi rồi, nhưng vẫn chưa phải là nhà cuối cùng. Cuối cùng là nhà một người Tày, nằm tận cửa khe núi luôn. Vào mùa đông, khe gần như cạn, những tảng đá to như lưng trâu nằm trơ trơ ra. Nhưng cuối xuân, đầu hè, khi những tiếng sấm bắt đầu ì ùng và mưa rào trút xuống, thì nước bắt đầu chảy len lỏi qua những khe đá, và đầy dần lên. Nếu mưa kéo dài chừng nửa ngày thì dòng suối sẽ như một con thuồng luồng dài ngoằng, dữ dội, lạnh lùng, cuốn phăng theo nó tất cả những gì nằm lổng chổng ven đường.

Miền sen và làng cổ

Làng cổ Nha Xá, xã Mộc Nam, Hà Nam nổi tiếng với những nếp nhà cổ và nghề dệt lụa. Người làng tự hào lắm một vùng quê yên bình, nằm giữa hệ thống ao, đầm sen rộng bát ngát.

11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN

Chiều 30 tháng 4, chúng tôi đến Sài Gòn

14 giờ ngày 30/4/1975, trên chiếc xe Jeep "lùn", chúng tôi - nhóm phóng viên báo Chiến sĩ Giải phóng - Quân đoàn 2, vào tới dinh Ðộc Lập. Lúc này sân trước Dinh đang ồn ã với số đông phóng viên báo chí và cán bộ, chiến sĩ ta.

Minh họa: THU HÀ

Cúi đầu trước núi

Tự dưng lúc này đây, khi đang ngồi dưới chân một dãy núi Tây Nguyên mà trong tôi lại trào lên cảm thức về những ngọn núi. Ðó có thể là nỗi ám ảnh mang mạch thở linh sơn đâu đó trong tâm tưởng. Ngắm núi mà muốn thốt lên lời tự lòng mình, ơi những chóp đỉnh cao vời, cho tôi xin được ngàn lần cúi đầu ngưỡng vọng…    

Tinh khôi hoa trắng

Về quê tôi dịp này có thể dễ dàng bắt gặp ở khắp các lối ngõ, bờ ao bừng lên một mầu trắng muốt tinh khôi của hoa dành dành. Mùi hương ngọt nồng dẫn lối đưa đường, dụ bao bướm ong dập dìu tụ tìm hút mật. Khi dành dành vào kỳ trổ hoa, ấy là mùa xuân cũng chuẩn bị khép lại.

Hà Nội mùa cây thay lá

Hà Nội mỗi mùa mang một sắc, mỗi con phố nhuốm một màu, thảy tất bốn mùa đều để lại cho ta cảm nhận những nét đẹp bâng khuâng trong sâu thẳm lòng mình mà khó có nơi nào có được. 

Cải vàng gọi nắng triền sông

Cuối năm, gió đã chuyển mình, cái rét len lỏi đâu đó trong từng nhành cây, ngọn cỏ. Hoa cải vào mùa, xôn xao rực vàng nơi triền sông vắng. Buổi chiều bỗng dài ra, lũ bướm ong tíu tít, mải mê bay lượn đến quên cả lối về.

Những ô cửa phố

Dịp cuối thu đầu đông, hương hoa sữa nồng nàn tỏa. Tôi có thói quen dạo phố một mình chỉ để nhẩn nha ngắm những ô cửa sổ, đôi khi ngỡ ngàng bởi chỉ là ô cửa sổ thôi cũng quá nhiều kiểu dáng thiết kế và mầu sắc trang trí. Rất nhiều ô cửa sổ nhìn ra đường, bên những ban-công được trồng nhiều khóm hoa xinh xắn. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cửa sổ có lẽ cũng là đôi mắt của ngôi nhà. Cửa sổ tạo mỹ quan cho không gian chung cả tuyến phố. Ở Hà Nội, các phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Phan Ðình Phùng, Nguyễn Gia Thiều… còn hiện diện nhiều ô cửa sổ nhuốm thời gian. Ở đó còn nhiều biệt thự cổ kính, những bức tường loang mầu hoài niệm, khi ấy những ô cửa như cũng trầm ngâm ưu tư, gợi nhắc về bao kỷ niệm xưa xa. Giữa một thành phố đông đúc, có lúc tắc đường đến ngộp thở, thì mỗi ô cửa này như những nốt nhạc trầm, đọng lại vẻ thi vị, thân thương

Mùa đông của cha

Ký ức sâu đậm trong chị về cha, gắn với thời tiết theo mùa. Tuổi ấu thơ của chị là những đêm hè lặng gió, oi nồng. Cha ngồi quạt đổi tay cho ba chị em đến khuya. Nhiều đêm, cha gần như không ngủ. Dạo ấy, điện là thứ xa xỉ, chỉ được dùng để thắp sáng trong mấy ngày Tết; còn lại, đèn dầu “làm bạn” với mọi nhà quanh năm, suốt tháng.

Bán thổ cẩm ở chợ Si Ma Cai. Ảnh: TUẤN LỢI

Si Ma Cai lên phố

Tháng 11-1966, xã Si Ma Cai (Lào Cai) được thành lập trên cơ sở ba thôn, gồm Phố Thầu, Phố Cũ, Phố Mới. Gọi là Phố nhưng thực chất ở đây, ngoài phiên chợ chủ nhật đông đúc, một dãy phố người Hoa ở phố cũ, Đồn Biên phòng, thì chỉ có mấy ngôi nhà gỗ dựng rải rác, vài cửa hàng mua bán đổi chác nông, lâm sản và vật dụng thiết yếu… song ba cái tên đã thể hiện khát khao lên phố của đồng bào. Qua nhiều năm xây dựng, phát triển, ngày 11-2-2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra quyết định thành lập thị trấn Si Ma Cai thuộc huyện Si Ma Cai.

Đỗ Đức Thắng (bên phải) và Hồ Văn Quang trong trận tiến công Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, Quảng Trị, tháng 4-1970. Ảnh: ĐOÀN CÔNG TÍNH

Người trong ảnh

Đến thăm các bảo tàng lịch sử ở Hà Nội và Thành cổ Quảng Trị, tôi đã nhìn thấy bức ảnh này: Hai người lính thông tin đang trong trận đánh đối mặt trực diện lực lượng địch. 

Đường hoa

Trời dịu nắng rủ tôi về làng, với những thân thương mà suốt thời tuổi thơ tôi và bạn bè đồng lứa có những trò chơi trẻ dại. Bao năm xa quê, có người phần nào “mất gốc” nhưng có những người vẫn đong đầy những ô vuông ký ức về làng như một thứ tài sản, soi mình vào hình ảnh của làng, của phố hay những cung đường đi qua để trân quý những vẻ đẹp thân thương, và để sống tốt hơn.

Vết thương

Vết thương

Trung tuần tháng 7-1972, trong trận phục kích đánh vào tiểu đoàn Bảo an của địch đến cứu viện cho đồn Tô Ma đang bị Tiểu đoàn 309 của ta bao vây, tôi bị thương khá nặng. Hôm đó, tôi vừa cầm khẩu AK bật dậy, thì một quả M79 của địch nổ phía trước tôi chừng chục mét.

Nước mắt của nữ chiến binh

Cô rất hay khóc. Tôi cũng hiểu. Dẫu cô nam tính, dẫu cô theo cách gọi cường điệu của tôi là một nữ tướng thì tướng vẫn có nước mắt.

Ngôi sao tháng bảy

Ngày tháng bảy bời bời xúc động khi cùng các bạn trẻ đoàn thanh niên của xã đến thăm mẹ. Mẹ là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, là niềm tự hào của xã Anh hùng quê tôi - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu nước, đã dâng hiến nhiều người con ưu tú cho Tổ quốc. Người dân quê chúng tôi vẫn thân thương gọi mẹ Hiền là bà Hến. Mẹ Hiền hiền lắm. Hiền như hoa trái trong vườn. Hiền như tên gọi mà mỗi khi cất lên đã chất chứa niềm nhân hậu.

Hoa ngọc lan vườn mẹ

Nhà tôi ở trong phố nên đất rất chật, mặt trước và mặt sau của ngôi nhà dài như ống tay áo, mẹ tôi cho người ta thuê để bán hàng. Ngõ dẫn vào khu giữa ngôi nhà nơi gia đình tôi sinh sống nhỏ như sợi chỉ khâu ở viền ống tay áo.

 Tượng đài Bác Hồ trên đảo Cô Tô (Quảng Ninh) Ảnh: Phạm Học

Mãi còn lưu dấu

1. Năm 1970, Tòa soạn báo Vùng mỏ chúng tôi được ông Ðỗ Thế Việt, cán bộ kháng chiến hoạt động ở khu mỏ Hồng Gai chuyển tới tấm thiếp của Bác Hồ gửi công nhân khu mỏ Hồng Gai năm 1953. Trong thư gửi kèm, ông Việt viết: "… Năm 1951, Công đoàn đặc khu Hồng Gai chúng tôi có gửi lên Việt Bắc biếu Bác Hồ một chiếc màn (quà biếu của một chị công nhân) và một bức tượng Bác bằng than đá do anh Trần Văn Mão, thợ mỏ Cẩm Phả tạc trong những ngày anh làm phu xe cuốc. Thì tháng 3-1953, Công đoàn đặc khu Hồng Gai nhận được tấm thiếp này của Bác Hồ từ Việt Bắc gửi về cảm ơn. Nay tôi thấy cần phải gửi về cho các đồng chí, mong được giới thiệu lại với công nhân khu mỏ về một bút tích quý giá của Bác…".

Nhật ký của một người Công giáo

Nhật ký của một người Công giáo

Cuối cùng tôi cũng đã tìm được nhà anh Triệu ở một phố hẻm quận Tân Bình. Sài Gòn mới được giải phóng. Thành phố tôi lần đầu đặt chân, nhưng lòng thì đã đến.

Những mùa hoa đậu biếc

Tôi nhận ra mầu tím hoa đậu biếc đang lấp lánh trong ly trà trước mặt mình. Trà hoa đậu biếc. Mầu tím ấy, thức dậy ký ức một thời tuổi thơ tôi trong vắt, bình yên.

Công suất các khu xử lý rác hiện nay chưa đáp ứng để thu gom và xử lý triệt để rác thải trên địa bàn thành phố.

Gỡ nút thắt quy hoạch, xử lý rác thải ở Hà Nội

Kỳ 2: Rà soát năng lực, đẩy nhanh tiến độ thực hiện

(Tiếp theo và hết)

Trong Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt từ tháng 10-2016, đã tính đến sự phối hợp vùng trong xử lý rác thải một số tỉnh chung quanh Thủ đô. Vấn đề quan trọng nhất là sự đồng thuận của nhân dân, nỗ lực của các cơ quan chức năng, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện dự án.

Những sắc thái của trường ca

Nghĩ về trường ca Việt Nam hiện đại, tôi rất tâm đắc với ý kiến của TS Chu Văn Sơn: "Khi thơ trữ tình muốn trình bày những suy cảm về những vận động lớn lao, thậm chí, kỳ vĩ của đời sống bằng một hình thức lớn, khi ấy trường ca xuất hiện. Nói gọn hơn, khi thơ trữ tình muốn chiếm lĩnh thực tại ở cấp độ cái kỳ vĩ thì trường ca bắt đầu lên tiếng". Sau ngày đất nước thống nhất, trường ca ngày càng nở rộ. Có một thế hệ những nhà thơ đã đi qua chiến tranh và tìm đến trường ca như một cuộc đại kiểm kê, một lời tâm sự lớn trước những biến cố lịch sử: Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Nguyễn Ðức Mậu, Từ Nguyên Tĩnh, Lê Mạnh Tuấn, Phạm Hồ Thu, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo, Trần Anh Thái, Thi Hoàng… Và, những người trẻ tuổi hơn đang tiếp nối mạch nguồn thể loại ấy hôm nay: Nguyễn Quang Hưng, Ðoàn Văn Mật, Lý Hữu Lương, Thy Nguyên…