Trưởng thành nhờ đất nước và cùng đất nước

Tháng 6/2022 này, sinh viên Khoa Ngữ văn, khóa VIII, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) kỷ niệm 55 năm ra trường. Với lịch sử đất nước, 55 năm không dài. Nhưng quãng thời gian đó đủ để một thế hệ đi từ khởi điểm của tuổi thanh xuân đến cận kề những bậc thang cuối của đời người.

Lần họp lớp gần nhất là chuyến thăm Khu di tích lịch sử Bạch Đằng (Thủy Nguyên, TP Hải Phòng).
Lần họp lớp gần nhất là chuyến thăm Khu di tích lịch sử Bạch Đằng (Thủy Nguyên, TP Hải Phòng).

Năm 1963, Khoa Ngữ văn tuyển 60 sinh viên, cũng là khóa bốn năm đầu tiên, gọi là Khóa VIII do thầy Hà Minh Đức làm chủ nhiệm. Không riêng gì Trường đại học Tổng hợp, những sinh viên trúng tuyển vào các trường đại học trong nước năm ấy đều thật sự là những gương mặt ưu tú, một số người từng chiếm giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi toàn miền bắc.

Sinh viên khóa này khá nhiều con em nông dân, lần đầu xa làng quê, đều sinh vào các năm trước hoặc sau năm 1945 một vài năm. Khóa VIII Khoa Ngữ văn khi vào trường năm 1963 ấy còn có khá đông học sinh miền nam tập kết ra miền bắc theo ba, má; một số người thậm chí không có người thân đi cùng. Cũng có không ít cán bộ, bộ đội chuyển ngành, đã từng làm công tác văn hóa, chính trị trong những năm chiến tranh, có kinh nghiệm thực tiễn. Họ hướng đến mục tiêu cụ thể: Sau này trở về miền nam khi đất nước thống nhất, sẽ trở thành lực lượng nòng cốt của cách mạng. Năm học 1963-1964 vừa khai giảng chưa bao lâu, Khóa VIII lại tiếp nhận thêm gần 30 sinh viên chuyên ngành Thư viện của Trường lý luận nghiệp vụ thuộc Bộ Văn hóa chuyển sang. Đến cuối năm 1964, Khóa VIII lại đón gần 30 sinh viên đang học nghệ thuật, điện ảnh từ Đông Đức, Liên Xô (trước đây), Romania chuyển về. Tổng cộng, lúc này Khóa VIII có tới 119 sinh viên, đông vượt trội so với các khóa trước với nhiều loại hình nghệ thuật và ngành nghề, đa dạng về trình độ nhận thức và lứa tuổi.

Xuất phát điểm khác nhau, nhưng lớp sinh viên này cùng bước chân vào giảng đường đại học với những ước mơ lãng mạn và sự trong sáng của tuổi trẻ sinh ra, lớn lên trong môi trường cách mạng. Đó là thời điểm kinh tế đất nước đã được phục hồi sau chiến tranh, miền bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, văn hóa, giáo dục được coi trọng…

Đất nước và nhân dân còn muôn vàn khó khăn, nam-bắc còn chia cắt với biết bao nhiêu mối lo, nhưng sinh viên vẫn được trang bị những phương tiện cần thiết nhất để yên tâm học hành. Hệ thống các trường phổ thông công lập và đại học đều không thu học phí, sinh viên được cấp học bổng.

NHƯNG rồi, toàn miền nam bước vào giai đoạn đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang. Lương thực, thực phẩm cùng hàng nghìn thanh niên từ miền bắc như thác lũ chảy ào ạt vào chi viện miền nam. Lớp học và ký túc xá của chúng tôi cũng qua thời bình lặng. Việc học quân sự có trong chương trình hằng năm, nhưng một tháng "lăn lê bò toài" trong khuôn viên ký túc xá thời điểm ấy cũng chính là rèn luyện để đi vào chiến trường.

Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lan ra khắp miền bắc, tiếng bom dội vào nơi chúng tôi ngồi học. Và rồi, cùng với nhân dân Thủ đô, cả trường bao gồm các khoa Ngữ văn, Lịch sử, Toán, Hóa, Sinh... đồng loạt sơ tán lên thung lũng Đại Từ (Bắc Thái, nay thuộc Thái Nguyên). Dưới chân núi Tràng Dương, chúng tôi tự dựng cơ sở vật chất: phòng học, thư viện, văn phòng khoa, nhà ăn tập thể, hội trường, căng-tin..., tất cả đều bằng tranh, tre, nứa, lá. Sinh viên và cán bộ khoa, thầy, cô giáo chia nhau ở trong nhà dân, được dân cưu mang.

Bình yên, nhưng chúng tôi không thể bình thản. Chúng tôi được người nông dân miền núi nghèo khó giúp đỡ, nhường cơm sẻ áo bao bọc, trong khi hạt thóc gặt hái từ những thửa ruộng bậc thang manh mún của họ vẫn phải chia sẻ cho chiến trường, con em họ vẫn lần lượt gác cày, treo cuốc rời làng nhập ngũ. Bởi vậy, mỗi sinh viên chúng tôi phải tự điều chỉnh sao cho cân bằng giữa tâm trạng nôn nóng "nhập cuộc" với việc chuẩn bị cho tương lai: "Học tập cũng là nhiệm vụ", "là đánh Mỹ". Đất nước đang bị xâm lược, cả lớp đã hơn một lần viết đơn xin ra chiến trường.

Thế rồi, tháng 11/1966, khi đang học năm thứ 4, 20 sinh viên của lớp đã nhận được cơ hội dấn thân. Cán bộ tổ chức của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) và Đài Tiếng nói Việt Nam (ĐTNVN) lên tận khu sơ tán, trực tiếp cùng lãnh đạo khoa lựa chọn danh sách, rồi sau đó 10 người về TTXVN, 10 người về ĐTNVN.

Về ĐTNVN, chúng tôi trải qua hai tuần học tập, trong đó có một tuần học chính trị, tuần còn lại học nghiệp vụ phát thanh. Cuối đợt học tập, Tổng Biên tập Trần Lâm đến tổng kết và giao nhiệm vụ. Theo ông, chúng tôi "sẽ sống và tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân miền nam" nhưng không nhất thiết phải vào chiến trường, bởi ngay tại Thủ đô cũng có "mặt trận" và "vũ khí".

Trưởng thành nhờ đất nước và cùng đất nước -0

Sau đó, bảy người được biên chế về Đài phát thanh Giải phóng A (mật danh CP 90), bộ phận biên tập ở 56 phố Quán Sứ (Hà Nội). Tôi cùng hai anh khác nhận việc ở Ban Biên tập miền nam. Chúng tôi có nhiệm vụ làm các chương trình phát thanh dành cho thính giả ở miền nam - "đi B trên đất bắc". Tuy nhiên, đến đầu năm 1975, cả tôi và Nguyễn Trương Đàn đều đã thật sự đi vào chiến trường, vừa đi vừa viết bài, gửi về qua thiết bị trên xe chuyên dụng, để phát trên các kênh sóng chính thức.

Nhóm sinh viên về TTXVN cũng được dự một lớp nghiệp vụ ngắn ngày, và hầu hết họ đã đi vào các mặt trận phía nam với tư cách nhà báo. Học hết năm thứ 4, nhiều sinh viên khác tiếp tục được bổ sung cho đội ngũ báo chí trên các chiến trường nóng bỏng. Dưới đây là một vài trích đoạn hồi ký của Đoàn Tử Diễn, một sinh viên Khóa VIII: "Thu Hoài vào năm 1967, ở căn cứ Khu 5 một thời gian thì xin về quê Bình Định, ít lâu sau trên Đài phát thanh đã có những ghi nhanh của anh về Phú Mỹ nổi dậy, tay không bứt phá nhiều đồn địch. Phan Văn Kính vào thẳng Khánh Hòa, vùng đất ác liệt và gian khổ nhất của chiến trường khu 5. Hoàng Sĩ Ngọc về mặt trận Trị Thiên-Huế, quê hương yêu dấu của anh. Ở nhiều chiến trường miền nam, anh em sinh viên cũ của Khoa Văn cũng sớm có mặt. Nhiều anh em trong số đó sớm hy sinh".

Đoàn Tử Diễn kể về Đinh Dệ-đồng môn Khóa VIII: "Tôi với Dệ như hai người đuổi bắt. Khi tôi ở Vĩnh Linh ra thì Đinh Dệ lên đường. Khi Vũ Xuân Mai, Ngô Thế Oanh, Hoàng Chu, Dương Đức Quảng, Bùi Hoàng Chung, Đoàn Tử Diễn vào Khu 5 thì Đinh Dệ đi vào Bình Định quê nhà. Và thật bàng hoàng, anh đã trút hơi thở cuối cùng nơi con dốc đổ xuống thượng nguồn sông Côn", khi ấy anh mới 28 tuổi.

Đồng môn Khóa VIII ngày ấy, không thể không nhắc đến Vũ Xuân Mai tức Trần Vũ Mai: "Từ chiến trường Nha Trang-Khánh Hòa, những bài thơ của Trần Vũ Mai được vang lên khắp đất nước qua sóng của ĐTNVN và Đài Phát thanh Giải phóng. Với Những người đã lớn, Cực Nam, Thành phố nghiêng mình và sau này là trường ca Ở làng Phước Hậu, thơ Trần Vũ Mai là khúc tráng ca của thế hệ trẻ đi giải phóng và thống nhất đất nước" (Nguyễn Thế Khoa).

HÚNG tôi học văn chương, nhưng cuối cùng, có đến 80% làm nghề báo. Gọi "duyên văn, nghiệp báo" là vậy. Một số khác hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, văn học nghệ thuật, là giảng viên đại học, nhà nghiên cứu khoa học xã hội, văn nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa dân tộc... Điều đó không do ý chí cá nhân, mà là sự lựa chọn của thời cuộc. Trong bối cảnh chiến tranh chống xâm lược, nghề báo là nghề mũi nhọn, là người lính xung kích trên mặt trận đấu tranh dư luận và tư tưởng.

Không chỉ ở chiến trường mà ở các "mặt trận" khác, người làm báo luôn luôn có những đóng góp nhất định. Nhiều người trong chúng tôi đã trở thành những cây bút sắc sảo, tầm vóc lớn, nhiều người đã giữ những trọng trách trong "làng báo" cũng như của đất nước. Anh Nguyễn Phú Trọng làm việc tại Tạp chí Học tập (nay là Tạp chí Cộng sản), lần lượt được tín nhiệm giữ các chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước, hiện là Tổng Bí thư của Đảng. Lớp trưởng Nguyễn Thái Ninh từng là Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương. Còn hàng chục cái tên thân thuộc khác, hàng chục nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu với những công trình khoa học có giá trị hay những tác phẩm được nhận các giải thưởng, danh hiệu cao quý mà Đảng và Nhà nước trao tặng, tiêu biểu như Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới-Giáo sư Hoàng Chương.

Được như ngày nay, lớp sinh viên Khóa VIII luôn nhớ ơn các thầy, cô giáo. Nói như nhà thơ Vũ Duy Thông: "Sự nể sợ học vấn còn bởi ngay cạnh chúng tôi đang có một dàn thầy giáo bây giờ có nằm mơ cũng khó thấy. Đó là các thầy Hoàng Xuân Nhị, Hoàng Như Mai, Đỗ Đức Hiểu, Lê Hồng Sâm, Nguyễn Kim Đính, Bạch Năng Thi, Tôn Gia Ngân, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên... (văn học), Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Phan Cảnh, Hoàng Thị Châu (ngôn ngữ), Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng (lịch sử) và cả các thầy Nhữ Thành, Cao Xuân Hạo không lên lớp, suốt ngày ngồi dịch sách...".

Sau 55 năm ra trường, nhiều người đã không còn nữa, những người còn góp mặt trong các buổi họp lớp hằng năm tóc đã bạc. Sự thành đạt có thể không đồng đều, số phận cá nhân cũng như hoàn cảnh gia đình mỗi người mỗi khác, song điều giống nhau là hầu hết đã gắn bó, đã dành hết cuộc đời mình, đặc biệt là tuổi trẻ của mình cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng đất nước sau ngày thống nhất.

Hà Nội, tháng 6/2022

(★) Nguyên sinh viên Khoa Ngữ Văn, Khóa VIII, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội; nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Truyền hình Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm

Nhà báo Nguyễn Trọng Định - người đầu tiên từ bên phải qua. Ảnh tư liệu của Nhà báo Trần Mai Hạnh

Người ra đi từ gốc đa Hàng Trống

Trong bức ảnh được chụp ngày 14/7/1968 tại bộ phận tiền phương Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Đà thuộc địa bàn huyện Duy Xuyên có tám nhà báo thì sau đó bốn người là liệt sĩ, một người là thương binh nặng. Người hy sinh đầu tiên là nhà báo-nhà thơ Nguyễn Trọng Định, phóng viên Báo Nhân Dân, cùng trong tổ phóng viên vào chiến trường Quảng Đà một ngày với tôi", nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh hồi tưởng.
Người dân xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận thu hoạch trái thanh long. Ảnh: Duy Hiển

Ân tình miền cát

Mảnh vườn đang lên xanh-cái mầu xanh từ những cành thanh long vươn dài-của Quân là hình ảnh sống động và lưu lại đầu tiên trong tâm trí tôi khi về với náo nức đất trời Bình Thuận, trong những ngày cuối năm nhiều cảm xúc.

Nhà báo Trần Lâm.

Mùa thu với hai nhà báo lão thành

Kể từ mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đội ngũ báo chí cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đông về số lượng và tăng về chất lượng.

Nụ cười ấm giữa ngày giông bão

Thành phố lại vào mùa mưa. Những cơn mưa dầm dề suốt ngày cùng con số ca nhiễm tăng cao, thêm nhiều hình ảnh cay sống mũi, đỏ hoe mắt khiến người thành phố thao thức.

Người dân hẻm 17, đường Gò Dầu (phường Tân Quý, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh) đi chợ tại "Gian hàng 0 đồng sẻ chia cùng khu cách ly". Ảnh: HUẾ XUÂN

Sài Gòn ân nghĩa

Không ai hiểu rõ Sài Gòn bằng chính người Sài Gòn. Sự hào sảng, nghĩa tình, lạc quan của thành phố này đã khiến cái sự “trọng thương” mà người nơi khác ví von đã không còn là một cảm thán tội nghiệp. Tự bản thân người nơi đây sẽ biến nó thành một sự khích lệ, động viên, là một ân tình lớn lao, mà có lẽ phải trải qua “mùa dịch bệnh”, người ta mới càng thật sự thấm thía hết ý nghĩa của từ này.

Trái tim của tôi

Trái tim của tôi

Sau nhà tôi hồi xưa có một cái khe núi. Nhà tôi đã ở gần khe núi rồi, nhưng vẫn chưa phải là nhà cuối cùng. Cuối cùng là nhà một người Tày, nằm tận cửa khe núi luôn. Vào mùa đông, khe gần như cạn, những tảng đá to như lưng trâu nằm trơ trơ ra. Nhưng cuối xuân, đầu hè, khi những tiếng sấm bắt đầu ì ùng và mưa rào trút xuống, thì nước bắt đầu chảy len lỏi qua những khe đá, và đầy dần lên. Nếu mưa kéo dài chừng nửa ngày thì dòng suối sẽ như một con thuồng luồng dài ngoằng, dữ dội, lạnh lùng, cuốn phăng theo nó tất cả những gì nằm lổng chổng ven đường.

Miền sen và làng cổ

Làng cổ Nha Xá, xã Mộc Nam, Hà Nam nổi tiếng với những nếp nhà cổ và nghề dệt lụa. Người làng tự hào lắm một vùng quê yên bình, nằm giữa hệ thống ao, đầm sen rộng bát ngát.

11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN

Chiều 30 tháng 4, chúng tôi đến Sài Gòn

14 giờ ngày 30/4/1975, trên chiếc xe Jeep "lùn", chúng tôi - nhóm phóng viên báo Chiến sĩ Giải phóng - Quân đoàn 2, vào tới dinh Ðộc Lập. Lúc này sân trước Dinh đang ồn ã với số đông phóng viên báo chí và cán bộ, chiến sĩ ta.

Minh họa: THU HÀ

Cúi đầu trước núi

Tự dưng lúc này đây, khi đang ngồi dưới chân một dãy núi Tây Nguyên mà trong tôi lại trào lên cảm thức về những ngọn núi. Ðó có thể là nỗi ám ảnh mang mạch thở linh sơn đâu đó trong tâm tưởng. Ngắm núi mà muốn thốt lên lời tự lòng mình, ơi những chóp đỉnh cao vời, cho tôi xin được ngàn lần cúi đầu ngưỡng vọng…    

Tinh khôi hoa trắng

Về quê tôi dịp này có thể dễ dàng bắt gặp ở khắp các lối ngõ, bờ ao bừng lên một mầu trắng muốt tinh khôi của hoa dành dành. Mùi hương ngọt nồng dẫn lối đưa đường, dụ bao bướm ong dập dìu tụ tìm hút mật. Khi dành dành vào kỳ trổ hoa, ấy là mùa xuân cũng chuẩn bị khép lại.

Hà Nội mùa cây thay lá

Hà Nội mỗi mùa mang một sắc, mỗi con phố nhuốm một màu, thảy tất bốn mùa đều để lại cho ta cảm nhận những nét đẹp bâng khuâng trong sâu thẳm lòng mình mà khó có nơi nào có được. 

Cải vàng gọi nắng triền sông

Cuối năm, gió đã chuyển mình, cái rét len lỏi đâu đó trong từng nhành cây, ngọn cỏ. Hoa cải vào mùa, xôn xao rực vàng nơi triền sông vắng. Buổi chiều bỗng dài ra, lũ bướm ong tíu tít, mải mê bay lượn đến quên cả lối về.

Những ô cửa phố

Dịp cuối thu đầu đông, hương hoa sữa nồng nàn tỏa. Tôi có thói quen dạo phố một mình chỉ để nhẩn nha ngắm những ô cửa sổ, đôi khi ngỡ ngàng bởi chỉ là ô cửa sổ thôi cũng quá nhiều kiểu dáng thiết kế và mầu sắc trang trí. Rất nhiều ô cửa sổ nhìn ra đường, bên những ban-công được trồng nhiều khóm hoa xinh xắn. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cửa sổ có lẽ cũng là đôi mắt của ngôi nhà. Cửa sổ tạo mỹ quan cho không gian chung cả tuyến phố. Ở Hà Nội, các phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Phan Ðình Phùng, Nguyễn Gia Thiều… còn hiện diện nhiều ô cửa sổ nhuốm thời gian. Ở đó còn nhiều biệt thự cổ kính, những bức tường loang mầu hoài niệm, khi ấy những ô cửa như cũng trầm ngâm ưu tư, gợi nhắc về bao kỷ niệm xưa xa. Giữa một thành phố đông đúc, có lúc tắc đường đến ngộp thở, thì mỗi ô cửa này như những nốt nhạc trầm, đọng lại vẻ thi vị, thân thương

Mùa đông của cha

Ký ức sâu đậm trong chị về cha, gắn với thời tiết theo mùa. Tuổi ấu thơ của chị là những đêm hè lặng gió, oi nồng. Cha ngồi quạt đổi tay cho ba chị em đến khuya. Nhiều đêm, cha gần như không ngủ. Dạo ấy, điện là thứ xa xỉ, chỉ được dùng để thắp sáng trong mấy ngày Tết; còn lại, đèn dầu “làm bạn” với mọi nhà quanh năm, suốt tháng.

Bán thổ cẩm ở chợ Si Ma Cai. Ảnh: TUẤN LỢI

Si Ma Cai lên phố

Tháng 11-1966, xã Si Ma Cai (Lào Cai) được thành lập trên cơ sở ba thôn, gồm Phố Thầu, Phố Cũ, Phố Mới. Gọi là Phố nhưng thực chất ở đây, ngoài phiên chợ chủ nhật đông đúc, một dãy phố người Hoa ở phố cũ, Đồn Biên phòng, thì chỉ có mấy ngôi nhà gỗ dựng rải rác, vài cửa hàng mua bán đổi chác nông, lâm sản và vật dụng thiết yếu… song ba cái tên đã thể hiện khát khao lên phố của đồng bào. Qua nhiều năm xây dựng, phát triển, ngày 11-2-2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra quyết định thành lập thị trấn Si Ma Cai thuộc huyện Si Ma Cai.

Đỗ Đức Thắng (bên phải) và Hồ Văn Quang trong trận tiến công Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, Quảng Trị, tháng 4-1970. Ảnh: ĐOÀN CÔNG TÍNH

Người trong ảnh

Đến thăm các bảo tàng lịch sử ở Hà Nội và Thành cổ Quảng Trị, tôi đã nhìn thấy bức ảnh này: Hai người lính thông tin đang trong trận đánh đối mặt trực diện lực lượng địch. 

Đường hoa

Trời dịu nắng rủ tôi về làng, với những thân thương mà suốt thời tuổi thơ tôi và bạn bè đồng lứa có những trò chơi trẻ dại. Bao năm xa quê, có người phần nào “mất gốc” nhưng có những người vẫn đong đầy những ô vuông ký ức về làng như một thứ tài sản, soi mình vào hình ảnh của làng, của phố hay những cung đường đi qua để trân quý những vẻ đẹp thân thương, và để sống tốt hơn.

Vết thương

Vết thương

Trung tuần tháng 7-1972, trong trận phục kích đánh vào tiểu đoàn Bảo an của địch đến cứu viện cho đồn Tô Ma đang bị Tiểu đoàn 309 của ta bao vây, tôi bị thương khá nặng. Hôm đó, tôi vừa cầm khẩu AK bật dậy, thì một quả M79 của địch nổ phía trước tôi chừng chục mét.

Nước mắt của nữ chiến binh

Cô rất hay khóc. Tôi cũng hiểu. Dẫu cô nam tính, dẫu cô theo cách gọi cường điệu của tôi là một nữ tướng thì tướng vẫn có nước mắt.

Ngôi sao tháng bảy

Ngày tháng bảy bời bời xúc động khi cùng các bạn trẻ đoàn thanh niên của xã đến thăm mẹ. Mẹ là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, là niềm tự hào của xã Anh hùng quê tôi - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu nước, đã dâng hiến nhiều người con ưu tú cho Tổ quốc. Người dân quê chúng tôi vẫn thân thương gọi mẹ Hiền là bà Hến. Mẹ Hiền hiền lắm. Hiền như hoa trái trong vườn. Hiền như tên gọi mà mỗi khi cất lên đã chất chứa niềm nhân hậu.

Hoa ngọc lan vườn mẹ

Nhà tôi ở trong phố nên đất rất chật, mặt trước và mặt sau của ngôi nhà dài như ống tay áo, mẹ tôi cho người ta thuê để bán hàng. Ngõ dẫn vào khu giữa ngôi nhà nơi gia đình tôi sinh sống nhỏ như sợi chỉ khâu ở viền ống tay áo.

 Tượng đài Bác Hồ trên đảo Cô Tô (Quảng Ninh) Ảnh: Phạm Học

Mãi còn lưu dấu

1. Năm 1970, Tòa soạn báo Vùng mỏ chúng tôi được ông Ðỗ Thế Việt, cán bộ kháng chiến hoạt động ở khu mỏ Hồng Gai chuyển tới tấm thiếp của Bác Hồ gửi công nhân khu mỏ Hồng Gai năm 1953. Trong thư gửi kèm, ông Việt viết: "… Năm 1951, Công đoàn đặc khu Hồng Gai chúng tôi có gửi lên Việt Bắc biếu Bác Hồ một chiếc màn (quà biếu của một chị công nhân) và một bức tượng Bác bằng than đá do anh Trần Văn Mão, thợ mỏ Cẩm Phả tạc trong những ngày anh làm phu xe cuốc. Thì tháng 3-1953, Công đoàn đặc khu Hồng Gai nhận được tấm thiếp này của Bác Hồ từ Việt Bắc gửi về cảm ơn. Nay tôi thấy cần phải gửi về cho các đồng chí, mong được giới thiệu lại với công nhân khu mỏ về một bút tích quý giá của Bác…".

Nhật ký của một người Công giáo

Nhật ký của một người Công giáo

Cuối cùng tôi cũng đã tìm được nhà anh Triệu ở một phố hẻm quận Tân Bình. Sài Gòn mới được giải phóng. Thành phố tôi lần đầu đặt chân, nhưng lòng thì đã đến.

Những mùa hoa đậu biếc

Tôi nhận ra mầu tím hoa đậu biếc đang lấp lánh trong ly trà trước mặt mình. Trà hoa đậu biếc. Mầu tím ấy, thức dậy ký ức một thời tuổi thơ tôi trong vắt, bình yên.

Công suất các khu xử lý rác hiện nay chưa đáp ứng để thu gom và xử lý triệt để rác thải trên địa bàn thành phố.

Gỡ nút thắt quy hoạch, xử lý rác thải ở Hà Nội

Kỳ 2: Rà soát năng lực, đẩy nhanh tiến độ thực hiện

(Tiếp theo và hết)

Trong Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt từ tháng 10-2016, đã tính đến sự phối hợp vùng trong xử lý rác thải một số tỉnh chung quanh Thủ đô. Vấn đề quan trọng nhất là sự đồng thuận của nhân dân, nỗ lực của các cơ quan chức năng, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện dự án.

Những sắc thái của trường ca

Nghĩ về trường ca Việt Nam hiện đại, tôi rất tâm đắc với ý kiến của TS Chu Văn Sơn: "Khi thơ trữ tình muốn trình bày những suy cảm về những vận động lớn lao, thậm chí, kỳ vĩ của đời sống bằng một hình thức lớn, khi ấy trường ca xuất hiện. Nói gọn hơn, khi thơ trữ tình muốn chiếm lĩnh thực tại ở cấp độ cái kỳ vĩ thì trường ca bắt đầu lên tiếng". Sau ngày đất nước thống nhất, trường ca ngày càng nở rộ. Có một thế hệ những nhà thơ đã đi qua chiến tranh và tìm đến trường ca như một cuộc đại kiểm kê, một lời tâm sự lớn trước những biến cố lịch sử: Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Nguyễn Ðức Mậu, Từ Nguyên Tĩnh, Lê Mạnh Tuấn, Phạm Hồ Thu, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo, Trần Anh Thái, Thi Hoàng… Và, những người trẻ tuổi hơn đang tiếp nối mạch nguồn thể loại ấy hôm nay: Nguyễn Quang Hưng, Ðoàn Văn Mật, Lý Hữu Lương, Thy Nguyên…