Chiều 30 tháng 4, chúng tôi đến Sài Gòn

14 giờ ngày 30/4/1975, trên chiếc xe Jeep "lùn", chúng tôi - nhóm phóng viên báo Chiến sĩ Giải phóng - Quân đoàn 2, vào tới dinh Ðộc Lập. Lúc này sân trước Dinh đang ồn ã với số đông phóng viên báo chí và cán bộ, chiến sĩ ta.

11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN
11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN

Dưới gốc cây phèo heo

Trước đó, đi theo đội hình chiến đấu của Sư đoàn 324, sau giải phóng Huế, Ðà Nẵng, ngày 13-4-1975, trên những chiếc xe đò của hãng Phi Long, tôi có mặt trong đoàn quân "Thần tốc" tiến về Sài Gòn. Sáng 28-4-1975, khi đang trong tâm trạng chộn rộn, nóng lòng chờ đợi của "Mũi nhọn nghi binh - thê đội dự bị" tại thị trấn Thành (Khánh Hòa) thì phóng viên Tân Thái lái xe Jeep xô tới, thúc giục tôi. Thế là hai anh em thay nhau vần vô-lăng, phi xe theo tiếng súng phía trước.

Lúc ấy (chiều 30-4-1975), anh Tân Thái cầm chiếc máy ảnh chụp bằng phim nhựa Ocvo, bấm lia lịa. Tôi không có máy ảnh nên cứ chạy lăng xăng như trẻ con đón mẹ về. Tôi gặp gỡ, cười nói, chào hỏi, ghi chép, ngó nghiêng khắp khu tiền sảnh, hậu sảnh. Ði ra khu vực phía sau Dinh, tôi thấy một cây cổ thụ lừng lững, rễ cộm lên gồ ghề, cuộn sóng như những dãy núi mi-ni lan rộng mặt đất. Ngước lên, mắt tôi chạm tấm biển có dòng chữ "Cây phèo heo". Ðúng là một cây lạ, rễ giống hệt bộ phèo con heo. Sẽ là chẳng có chuyện gì đáng nói nếu tôi không tò mò tiến sát gốc cổ thụ để ngắm nghía. Tôi bỗng khựng lại khi nhận ra một người chiến sĩ ta nằm ép sát giữa các khe rễ phèo heo, tư thế hướng về phía trước Dinh. Tôi bước tới, lay lay lưng áo, hỏi: "Ðồng chí làm sao thế? Ðồng chí ơi! Ðồng chí làm sao thế?". Không thấy phản ứng gì, nhưng thấy lưng người chiến sĩ vẫn nóng rừng rực, nên tôi cố lật nghiêng anh lên. Trời…! Anh nằm đè lên khẩu AK, một tay ôm chặt cây cờ Giải phóng cuộn tròn theo hình mũi tên. Mặt, ngực anh máu tràn thấm đẫm quân phục, thấm đẫm một phần cây cờ anh đang ôm. Có lẽ anh bị thương từ buổi sáng. Anh khẽ ngước mắt nhìn tôi, đôi môi khô mấp máy. Tôi hiểu anh đang cần nước uống. Người lính nào cũng vậy, sau khi bị thương thường khát nước. Tôi vội mở nắp bi-đông mang theo, đưa vào phía miệng anh. Lúng túng, xúc động xen lẫn nên nước từ bi-đông cứ òng ọc tuôn tràn cả lên má người chiến sĩ. Anh tóp tép nuốt, nuốt cả nước lẫn máu từ má anh tràn xuống. Tôi mừng vì biết anh còn sống mà tự nhiên khóc nấc.

Tôi hỏi: "Ðồng chí ở đơn vị nào, tên đồng chí là gì?". Người chiến sĩ phều phào: "Guâng đoàn bốn". "Ðồng chí tên gì?". "Tên Tu..ư, quê Giồng Trôm…". Tôi cố vạch ngực áo anh để xem cho cặn kẽ ký hiệu đơn vị thường được thêu trên áo. Nhưng tôi không thể luận ra vì dòng ký hiệu một phần bị đạn xuyên toạc, phần còn lại đã nhòe máu từ vết thương của anh. Phải cấp cứu, phải cấp cứu ngay, tôi thoáng nghĩ và hướng ra phía trước Dinh, gào to: Có đồng chí ở Quân đoàn 4 bị thương, mọi người tới giúp một tay nào…! Các đồng chí ơi…! Tôi vừa gào lên vừa tháo túi băng cá nhân của mình băng quanh vùng ngực người chiến sĩ. Thú thực, lúc đó tôi cứ quấn bừa chứ không nhìn rõ vết thương phía dưới vạt áo lính của anh. Quấn băng xong, tôi vuột chạy ra phía trước Dinh, vừa chạy vừa gào để tìm người hỗ trợ. Sân trước Dinh vẫn đông đúc, ồn ã vui mừng chiến thắng. Một số người thấy tôi hô hào cũng ào theo, trong đó có nhiều người nước ngoài. Tôi đề nghị ai đó có xe cho mượn để chở thương binh đến bệnh viện. Rất nhanh chóng có đến mấy chiếc xe chạy tới. Chúng tôi khiêng người chiến sĩ lên một chiếc xe Jeep không mui, do một người nước ngoài lái. Việc khiêng thương binh lên xe tưởng đơn giản mà quá khó khăn. Anh thương binh Quân đoàn 4 này kiên quyết chống cự. Hai tay anh quặp lại ôm chặt cây cờ, khẩu súng, vừa ghì chặt vào rễ cây phèo heo, không sao nhấc anh lên được. Tôi quát: "Ðồng chí Tư. Chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, Dinh Ðộc Lập cờ Giải phóng đã tung bay. Ðề nghị đồng chí giao lại súng, cờ để đi làm nhiệm vụ mới! Rõ chưa!". Anh chiến sĩ cố ngước lên nhìn tôi, thấy bộ mặt tôi nghiêm nghị, anh mới từ từ buông tay tuân lệnh.

Chiếc xe Jeep rú còi chạy vun vút trên đường phố Sài Gòn đầy cờ hoa, nắng gió, đến dừng tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Ðón xe chúng tôi là tốp thanh niên áo xanh, đeo băng đỏ. Họ là lực lượng thanh niên, sinh viên được tập hợp để làm nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn trật tự, trị an những ngày đầu giải phóng. Nghe tôi trình bày, họ nhanh chóng huy động bác sĩ đưa thương binh lên bàn cấp cứu. Lát sau, họ quay ra, thông báo: "Anh ấy đã hy sinh"…!

"Cái đuôi Việt Cộng"

Ðêm ấy, chúng tôi ngủ tại căn nhà bảo vệ nằm phía trái cổng, trong khuôn viên Dinh Ðộc Lập. Vừa vui, vừa mừng, vừa mệt nên chẳng thấy đói, chúng tôi cũng chẳng thiết ăn gì. Nhưng khát thì không thể nhịn được. Chúng tôi mượn được cái xoong nhỏ để đun nước. Nhưng không có bếp, không có củi mà cũng chẳng có gạch để kê làm "đầu rau". Loay hoay một lúc, nồi nước cũng được đun bởi "sáng kiến" kê một phần xoong vào bậc lên xuống trong nhà, phía quai xoong còn lại dùng đoạn dây thép buộc treo lên. Tôi giữ phần dây treo cho thăng bằng. Khi xoong nước sôi hạ xuống, anh Tân Thái lôi từ ba-lô ra một túi đường có nhẽ tới cả kg, đổ hết vào xoong. Ðêm Sài Gòn tháng tư quá nóng, xoong nước vừa sôi như nóng bỏng hơn nhiệt độ vốn có. Chúng tôi thì khát cháy cổ mà không sao uống được. Chúng tôi liền nghĩ ra việc đi mua đá lạnh.

Bước ra cổng Dinh, tôi hỏi đường đến chợ Bến Thành. Có đến vài chục người đang đứng chuyện trò, bàn luận sôi nổi trước cổng Dinh ào đến, vây quanh tôi như vây quanh một thần tượng. Họ ríu ran, hỏi han xởi lởi. Ngồi sau chiếc xe "Honda 67" của một thanh niên, vèo vèo vài phút tôi đã có mặt trước cổng chợ Bến Thành. Ðêm Sài Gòn sáng trưng. Thành phố ồn ã, đông vui như hội. Tôi ghé tới quầy mua chanh. Chị bán chanh tấp đầy chanh vào mũ cối của tôi và dứt khoát từ chối khi tôi móc túi lấy đưa chị tờ "năm chục". Tôi sang quầy bán đá cây, mua một tảng đá lạnh nặng tới năm, sáu ký. Anh bán đá cũng quyết không lấy tiền.

Ðã 46 năm trôi qua. Sài Gòn giờ đã "Ðàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Thi thoảng, tôi vẫn nhớ về người chiến sĩ Quân đoàn 4 ôm cờ ngã xuống đúng vào giờ đầu tiên của chiến thắng, tay ghì chặt khẩu súng và lá cờ Giải phóng dưới gốc cây phèo heo phía sau Dinh Ðộc Lập.

Có thể bạn quan tâm

Nhà báo Nguyễn Trọng Định - người đầu tiên từ bên phải qua. Ảnh tư liệu của Nhà báo Trần Mai Hạnh

Người ra đi từ gốc đa Hàng Trống

Trong bức ảnh được chụp ngày 14/7/1968 tại bộ phận tiền phương Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Đà thuộc địa bàn huyện Duy Xuyên có tám nhà báo thì sau đó bốn người là liệt sĩ, một người là thương binh nặng. Người hy sinh đầu tiên là nhà báo-nhà thơ Nguyễn Trọng Định, phóng viên Báo Nhân Dân, cùng trong tổ phóng viên vào chiến trường Quảng Đà một ngày với tôi", nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh hồi tưởng.
Lần họp lớp gần nhất là chuyến thăm Khu di tích lịch sử Bạch Đằng (Thủy Nguyên, TP Hải Phòng).

Trưởng thành nhờ đất nước và cùng đất nước

Tháng 6/2022 này, sinh viên Khoa Ngữ văn, khóa VIII, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) kỷ niệm 55 năm ra trường. Với lịch sử đất nước, 55 năm không dài. Nhưng quãng thời gian đó đủ để một thế hệ đi từ khởi điểm của tuổi thanh xuân đến cận kề những bậc thang cuối của đời người.

Người dân xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận thu hoạch trái thanh long. Ảnh: Duy Hiển

Ân tình miền cát

Mảnh vườn đang lên xanh-cái mầu xanh từ những cành thanh long vươn dài-của Quân là hình ảnh sống động và lưu lại đầu tiên trong tâm trí tôi khi về với náo nức đất trời Bình Thuận, trong những ngày cuối năm nhiều cảm xúc.

Nhà báo Trần Lâm.

Mùa thu với hai nhà báo lão thành

Kể từ mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đội ngũ báo chí cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đông về số lượng và tăng về chất lượng.

Nụ cười ấm giữa ngày giông bão

Thành phố lại vào mùa mưa. Những cơn mưa dầm dề suốt ngày cùng con số ca nhiễm tăng cao, thêm nhiều hình ảnh cay sống mũi, đỏ hoe mắt khiến người thành phố thao thức.

Người dân hẻm 17, đường Gò Dầu (phường Tân Quý, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh) đi chợ tại "Gian hàng 0 đồng sẻ chia cùng khu cách ly". Ảnh: HUẾ XUÂN

Sài Gòn ân nghĩa

Không ai hiểu rõ Sài Gòn bằng chính người Sài Gòn. Sự hào sảng, nghĩa tình, lạc quan của thành phố này đã khiến cái sự “trọng thương” mà người nơi khác ví von đã không còn là một cảm thán tội nghiệp. Tự bản thân người nơi đây sẽ biến nó thành một sự khích lệ, động viên, là một ân tình lớn lao, mà có lẽ phải trải qua “mùa dịch bệnh”, người ta mới càng thật sự thấm thía hết ý nghĩa của từ này.

Trái tim của tôi

Trái tim của tôi

Sau nhà tôi hồi xưa có một cái khe núi. Nhà tôi đã ở gần khe núi rồi, nhưng vẫn chưa phải là nhà cuối cùng. Cuối cùng là nhà một người Tày, nằm tận cửa khe núi luôn. Vào mùa đông, khe gần như cạn, những tảng đá to như lưng trâu nằm trơ trơ ra. Nhưng cuối xuân, đầu hè, khi những tiếng sấm bắt đầu ì ùng và mưa rào trút xuống, thì nước bắt đầu chảy len lỏi qua những khe đá, và đầy dần lên. Nếu mưa kéo dài chừng nửa ngày thì dòng suối sẽ như một con thuồng luồng dài ngoằng, dữ dội, lạnh lùng, cuốn phăng theo nó tất cả những gì nằm lổng chổng ven đường.

Miền sen và làng cổ

Làng cổ Nha Xá, xã Mộc Nam, Hà Nam nổi tiếng với những nếp nhà cổ và nghề dệt lụa. Người làng tự hào lắm một vùng quê yên bình, nằm giữa hệ thống ao, đầm sen rộng bát ngát.

Minh họa: THU HÀ

Cúi đầu trước núi

Tự dưng lúc này đây, khi đang ngồi dưới chân một dãy núi Tây Nguyên mà trong tôi lại trào lên cảm thức về những ngọn núi. Ðó có thể là nỗi ám ảnh mang mạch thở linh sơn đâu đó trong tâm tưởng. Ngắm núi mà muốn thốt lên lời tự lòng mình, ơi những chóp đỉnh cao vời, cho tôi xin được ngàn lần cúi đầu ngưỡng vọng…    

Tinh khôi hoa trắng

Về quê tôi dịp này có thể dễ dàng bắt gặp ở khắp các lối ngõ, bờ ao bừng lên một mầu trắng muốt tinh khôi của hoa dành dành. Mùi hương ngọt nồng dẫn lối đưa đường, dụ bao bướm ong dập dìu tụ tìm hút mật. Khi dành dành vào kỳ trổ hoa, ấy là mùa xuân cũng chuẩn bị khép lại.

Hà Nội mùa cây thay lá

Hà Nội mỗi mùa mang một sắc, mỗi con phố nhuốm một màu, thảy tất bốn mùa đều để lại cho ta cảm nhận những nét đẹp bâng khuâng trong sâu thẳm lòng mình mà khó có nơi nào có được. 

Cải vàng gọi nắng triền sông

Cuối năm, gió đã chuyển mình, cái rét len lỏi đâu đó trong từng nhành cây, ngọn cỏ. Hoa cải vào mùa, xôn xao rực vàng nơi triền sông vắng. Buổi chiều bỗng dài ra, lũ bướm ong tíu tít, mải mê bay lượn đến quên cả lối về.

Những ô cửa phố

Dịp cuối thu đầu đông, hương hoa sữa nồng nàn tỏa. Tôi có thói quen dạo phố một mình chỉ để nhẩn nha ngắm những ô cửa sổ, đôi khi ngỡ ngàng bởi chỉ là ô cửa sổ thôi cũng quá nhiều kiểu dáng thiết kế và mầu sắc trang trí. Rất nhiều ô cửa sổ nhìn ra đường, bên những ban-công được trồng nhiều khóm hoa xinh xắn. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cửa sổ có lẽ cũng là đôi mắt của ngôi nhà. Cửa sổ tạo mỹ quan cho không gian chung cả tuyến phố. Ở Hà Nội, các phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Phan Ðình Phùng, Nguyễn Gia Thiều… còn hiện diện nhiều ô cửa sổ nhuốm thời gian. Ở đó còn nhiều biệt thự cổ kính, những bức tường loang mầu hoài niệm, khi ấy những ô cửa như cũng trầm ngâm ưu tư, gợi nhắc về bao kỷ niệm xưa xa. Giữa một thành phố đông đúc, có lúc tắc đường đến ngộp thở, thì mỗi ô cửa này như những nốt nhạc trầm, đọng lại vẻ thi vị, thân thương

Mùa đông của cha

Ký ức sâu đậm trong chị về cha, gắn với thời tiết theo mùa. Tuổi ấu thơ của chị là những đêm hè lặng gió, oi nồng. Cha ngồi quạt đổi tay cho ba chị em đến khuya. Nhiều đêm, cha gần như không ngủ. Dạo ấy, điện là thứ xa xỉ, chỉ được dùng để thắp sáng trong mấy ngày Tết; còn lại, đèn dầu “làm bạn” với mọi nhà quanh năm, suốt tháng.

Bán thổ cẩm ở chợ Si Ma Cai. Ảnh: TUẤN LỢI

Si Ma Cai lên phố

Tháng 11-1966, xã Si Ma Cai (Lào Cai) được thành lập trên cơ sở ba thôn, gồm Phố Thầu, Phố Cũ, Phố Mới. Gọi là Phố nhưng thực chất ở đây, ngoài phiên chợ chủ nhật đông đúc, một dãy phố người Hoa ở phố cũ, Đồn Biên phòng, thì chỉ có mấy ngôi nhà gỗ dựng rải rác, vài cửa hàng mua bán đổi chác nông, lâm sản và vật dụng thiết yếu… song ba cái tên đã thể hiện khát khao lên phố của đồng bào. Qua nhiều năm xây dựng, phát triển, ngày 11-2-2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra quyết định thành lập thị trấn Si Ma Cai thuộc huyện Si Ma Cai.

Đỗ Đức Thắng (bên phải) và Hồ Văn Quang trong trận tiến công Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, Quảng Trị, tháng 4-1970. Ảnh: ĐOÀN CÔNG TÍNH

Người trong ảnh

Đến thăm các bảo tàng lịch sử ở Hà Nội và Thành cổ Quảng Trị, tôi đã nhìn thấy bức ảnh này: Hai người lính thông tin đang trong trận đánh đối mặt trực diện lực lượng địch. 

Đường hoa

Trời dịu nắng rủ tôi về làng, với những thân thương mà suốt thời tuổi thơ tôi và bạn bè đồng lứa có những trò chơi trẻ dại. Bao năm xa quê, có người phần nào “mất gốc” nhưng có những người vẫn đong đầy những ô vuông ký ức về làng như một thứ tài sản, soi mình vào hình ảnh của làng, của phố hay những cung đường đi qua để trân quý những vẻ đẹp thân thương, và để sống tốt hơn.

Vết thương

Vết thương

Trung tuần tháng 7-1972, trong trận phục kích đánh vào tiểu đoàn Bảo an của địch đến cứu viện cho đồn Tô Ma đang bị Tiểu đoàn 309 của ta bao vây, tôi bị thương khá nặng. Hôm đó, tôi vừa cầm khẩu AK bật dậy, thì một quả M79 của địch nổ phía trước tôi chừng chục mét.

Nước mắt của nữ chiến binh

Cô rất hay khóc. Tôi cũng hiểu. Dẫu cô nam tính, dẫu cô theo cách gọi cường điệu của tôi là một nữ tướng thì tướng vẫn có nước mắt.

Ngôi sao tháng bảy

Ngày tháng bảy bời bời xúc động khi cùng các bạn trẻ đoàn thanh niên của xã đến thăm mẹ. Mẹ là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, là niềm tự hào của xã Anh hùng quê tôi - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu nước, đã dâng hiến nhiều người con ưu tú cho Tổ quốc. Người dân quê chúng tôi vẫn thân thương gọi mẹ Hiền là bà Hến. Mẹ Hiền hiền lắm. Hiền như hoa trái trong vườn. Hiền như tên gọi mà mỗi khi cất lên đã chất chứa niềm nhân hậu.

Hoa ngọc lan vườn mẹ

Nhà tôi ở trong phố nên đất rất chật, mặt trước và mặt sau của ngôi nhà dài như ống tay áo, mẹ tôi cho người ta thuê để bán hàng. Ngõ dẫn vào khu giữa ngôi nhà nơi gia đình tôi sinh sống nhỏ như sợi chỉ khâu ở viền ống tay áo.

 Tượng đài Bác Hồ trên đảo Cô Tô (Quảng Ninh) Ảnh: Phạm Học

Mãi còn lưu dấu

1. Năm 1970, Tòa soạn báo Vùng mỏ chúng tôi được ông Ðỗ Thế Việt, cán bộ kháng chiến hoạt động ở khu mỏ Hồng Gai chuyển tới tấm thiếp của Bác Hồ gửi công nhân khu mỏ Hồng Gai năm 1953. Trong thư gửi kèm, ông Việt viết: "… Năm 1951, Công đoàn đặc khu Hồng Gai chúng tôi có gửi lên Việt Bắc biếu Bác Hồ một chiếc màn (quà biếu của một chị công nhân) và một bức tượng Bác bằng than đá do anh Trần Văn Mão, thợ mỏ Cẩm Phả tạc trong những ngày anh làm phu xe cuốc. Thì tháng 3-1953, Công đoàn đặc khu Hồng Gai nhận được tấm thiếp này của Bác Hồ từ Việt Bắc gửi về cảm ơn. Nay tôi thấy cần phải gửi về cho các đồng chí, mong được giới thiệu lại với công nhân khu mỏ về một bút tích quý giá của Bác…".

Nhật ký của một người Công giáo

Nhật ký của một người Công giáo

Cuối cùng tôi cũng đã tìm được nhà anh Triệu ở một phố hẻm quận Tân Bình. Sài Gòn mới được giải phóng. Thành phố tôi lần đầu đặt chân, nhưng lòng thì đã đến.

Những mùa hoa đậu biếc

Tôi nhận ra mầu tím hoa đậu biếc đang lấp lánh trong ly trà trước mặt mình. Trà hoa đậu biếc. Mầu tím ấy, thức dậy ký ức một thời tuổi thơ tôi trong vắt, bình yên.

Công suất các khu xử lý rác hiện nay chưa đáp ứng để thu gom và xử lý triệt để rác thải trên địa bàn thành phố.

Gỡ nút thắt quy hoạch, xử lý rác thải ở Hà Nội

Kỳ 2: Rà soát năng lực, đẩy nhanh tiến độ thực hiện

(Tiếp theo và hết)

Trong Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt từ tháng 10-2016, đã tính đến sự phối hợp vùng trong xử lý rác thải một số tỉnh chung quanh Thủ đô. Vấn đề quan trọng nhất là sự đồng thuận của nhân dân, nỗ lực của các cơ quan chức năng, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện dự án.

Những sắc thái của trường ca

Nghĩ về trường ca Việt Nam hiện đại, tôi rất tâm đắc với ý kiến của TS Chu Văn Sơn: "Khi thơ trữ tình muốn trình bày những suy cảm về những vận động lớn lao, thậm chí, kỳ vĩ của đời sống bằng một hình thức lớn, khi ấy trường ca xuất hiện. Nói gọn hơn, khi thơ trữ tình muốn chiếm lĩnh thực tại ở cấp độ cái kỳ vĩ thì trường ca bắt đầu lên tiếng". Sau ngày đất nước thống nhất, trường ca ngày càng nở rộ. Có một thế hệ những nhà thơ đã đi qua chiến tranh và tìm đến trường ca như một cuộc đại kiểm kê, một lời tâm sự lớn trước những biến cố lịch sử: Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Nguyễn Ðức Mậu, Từ Nguyên Tĩnh, Lê Mạnh Tuấn, Phạm Hồ Thu, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo, Trần Anh Thái, Thi Hoàng… Và, những người trẻ tuổi hơn đang tiếp nối mạch nguồn thể loại ấy hôm nay: Nguyễn Quang Hưng, Ðoàn Văn Mật, Lý Hữu Lương, Thy Nguyên…