Nhật ký của một người Công giáo

Cuối cùng tôi cũng đã tìm được nhà anh Triệu ở một phố hẻm quận Tân Bình. Sài Gòn mới được giải phóng. Thành phố tôi lần đầu đặt chân, nhưng lòng thì đã đến.

Nhật ký của một người Công giáo

Vợ tôi và anh Triệu là anh em thúc bá. Anh đưa cả gia đình di cư vô Nam năm 1954 với hai lý do: Anh đã từng đi kháng chiến ở Việt Bắc, không chịu được khổ và “dinh tê”, và cần vô Nam vì Chúa đã vô trong đó rồi.

Đây là thành viên duy nhất của họ tộc vợ tôi định cư ở Sài Gòn. Vậy là đã xa cách nhau 21 năm không tin tức tính đến khi Sài Gòn được giải phóng năm 1975.

Căn phòng khách tiếp tôi không sang trọng nhưng ngăn nắp, có gia phong. Trên tường treo các bức phiên bản tranh Thánh: Trái tim Đức Mẹ, Chúa Giê-su hài đồng, Chúa Giê-su chịu nạn, Các Thánh Tông đồ, Mười bốn nơi thương khó. Toàn tranh của các họa sĩ thánh đường thời kỳ Phục hưng.

Đón tôi là vợ chồng anh Triệu, bác cả Vạn mẹ anh, cùng các con anh. Lần đầu tiên gặp họ. Còn trước mặt họ là tôi, “nhà báo cộng sản” từ Bắc vô, và cũng lần đầu tiên gặp.

Sau khi đọc thư của bố vợ tôi gửi, cùng xem vài bức ảnh kỷ niệm xưa cũ và bây giờ, cả gia đình mừng mừng, tủi tủi. Mắt anh Triệu rớm lệ. Bố vợ tôi không có con trai, tôi là rể cả, đang ở cùng ông, được ông tin yêu như con trai. Chính vì lẽ đó, tôi có thể kể tường tận về từng người, từng gia đình trong họ tộc anh đang ở Hà Nội, cũng như đang ở quê gốc làng Chèm. Mối quan tâm lớn nhất đối với anh là ba bà cô tu tại gia ở làng, vẫn khỏe mạnh và ơn Chúa hằng ngày dùng đủ. Vợ chồng tôi về thăm các cô luôn. Càng nghe chuyện tôi kể, gương mặt anh Triệu càng phấn chấn, khoảng cách xa lạ không còn nữa.

Bỗng anh thở dài tâm sự, rằng hồi ấy ra đi là “mặc cảm tội lỗi”.

- Chuyện đã qua - Tôi an ủi anh - Giờ, gia đình ta sống ra sao?

- Cũng ổn. Tôi làm thủ thư cho một thư viện. Chị mở phòng khám nha khoa. Các cháu tiếp tục đi học. Hiềm là cháu Tuấn, Tú đã đi Ca-na-đa rồi. Chúng đã thư về. Vất vả lắm. Vùng đất rét...

Tôi chạnh lòng. Giải phóng đem lại sự đoàn tụ, thì gia đình anh lại có chia ly.

- Vậy hai tháng ba và tư, anh có theo dõi cuộc chiến không?

Anh đứng dậy ra tủ sách, mang lại cho tôi cuốn sổ dày: “Nhật ký Giải phóng”.

Tôi lật vội từng trang. Ra anh ghi chép cập nhật rất kỹ càng hành trình giải phóng. Mở đầu là Buôn Ma Thuột với chiến dịch Tây Nguyên, rồi chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng, rồi chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn. Ngày nào anh cũng ghi, dưới hàng chữ ngày tháng anh gạch chân bằng bút mực đỏ.

- Anh lấy thông tin từ báo chí Sài Gòn ư?

- Một phần bề nổi. Còn, tôi nghe lén Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Giải phóng.

Điều làm tôi lưu tâm nhất, là sau mỗi sự kiện, anh ghi cả cảm xúc và tâm trạng của anh. Thí dụ như: Thất thủ ư! Sao nhanh thế? Đã tới Huế! Mới hôm qua mà sáng nay đã... cô Bình ơi! May cô quá, giải phóng Đà Nẵng rồi. Lòng tôi mung lung. Chả kịp nghĩ. Ôi hai từ “thần tốc”. Một chế độ đã lụi tàn đến thế này ư? Chưa đánh đã chạy. Lại thay đổi tướng. Lại cải hoán cả Tổng thống...

Bố vợ tôi đã cho biết từ trước, anh Triệu là người giàu tình cảm nhất trong họ. Anh hay ghi chép và làm thơ. Anh đi theo kháng chiến làm cán bộ văn hóa tuyên truyền.

Vừa lúc, vợ chồng cô Bình tới. Anh Triệu đã sai một cháu đi mời. Cô Bình là bà cô họ xa thuộc chi khác của vợ tôi.

Gương mặt cô chú đều rạng rỡ, không một chút buồn, nhưng có phần đay nghiến:

- Chào cháu nhà báo cộng sản! Đến thăm người nhà ngụy Sài Gòn mà không ngại liên lụy sao?

Tôi cười:

- Cùng là chiên Chúa cả mà cô!

Trong nhật ký anh Triệu ghi “cô Bình ơi! May cho cô quá!”, là cái may gia đình cô đã chạy sớm vào Sài Gòn ngay khi chiến sự nổ ra ở Tây Nguyên, bỏ lại Đà Nẵng cả một khối bất động sản của hãng buôn. Cô Bình giàu có. Thương nhân thì chỉ quan tâm tới làm ăn và cầu mong yên ổn. Tuy nhiên, như cô nói, chú-chồng cô, có vướng chút “bụi”. Chú là thiếu tá nhưng chuyên ngành tin học. Không phải đi cải tạo. Chỉ cần trình diện và học tập ít ngày.

Bỗng con gái lớn anh Triệu tung ra một câu:

- Phúc đức là gia đình chúng ta không ai có nợ máu.

Bác cả Vạn giật thót người:

- Lạy Chúa tôi! Cháu nói gì mà rợn cả người?

Vợ chồng cô Bình thì khỏi lo. Có vốn từ Đà Nẵng mang vào đủ sống để chờ đợi vài năm xem sao. Anh Triệu thì khó, đủ sống cầm chừng. Cô Bình hỏi:

- Nghe tin ngoài Bắc sống phân phối?

Tôi bật cười về cách dùng từ của cô:

- Vâng. Phân phối để đủ dùng. Ăn no và mặc ấm. Cô thấy cháu đủ khỏe để thần tốc vào đây.

- Giỏi! Một lúc, cô chưa thể hiểu hết anh.

- Cô sẽ hiểu nhanh thôi mà. Chắc mọi người Sài Gòn đều biết linh mục nhà báo Nguyễn Ngọc Lan, làm việc ở Tạp chí Đứng Dậy, rồi Đối Diện thời Mỹ - ngụy. Bây giờ là Đồng Dao. Ông mới có một phóng sự in dài kỳ về những khó khăn, đời sống của Hà Nội, của người Hà Nội “Hà Nội không có gì thay đổi: Mái ngói rêu phong - Ban công sắt rỉ không còn sắt - Tán cây rậm rì như ủ thời gian lại. Có cảm giác Hà Nội khựng ở điểm này”. Rồi “Hàng Đào không lụa, Hàng Bạc không vàng. Gặp ba cửa hàng nhận vá áo đi mưa, không có cửa hàng nhận dán áo đi mưa”... Để cuối cùng, ông có lời kết: “Phong cách của người Hà Nội là nhịn ăn để mặc. Còn người Sài Gòn là nhịn mặc để ăn. Nhưng người Hà Nội đã phải trải qua nhịn cả ăn lẫn mặc, để vì một thứ cao quý hơn rất nhiều, đó là Tự do và Độc lập”.

Con gái lớn anh Triệu góp chuyện:

- Cháu có biết linh mục Nguyễn Ngọc Lan. Ông du học và chịu chức ở La Mã. Hình như làm báo cùng linh mục Chân Tín...

- Đúng thế. Các linh mục sống trong lòng chính quyền Mỹ - ngụy mà lại dám Đối Diện, Đứng Dậy.

Bỗng chồng cô Bình dè dặt, nói như cho riêng mình nghe:

- Cũng kỳ. Hôm rồi, tôi đi một chuyến xe đò. Có người kể chuyện phàn nàn về anh lính giải phóng khi vô Sài Gòn đã xả đạn AK vào những dàn đèn chùm, vào các thiết bị nội thất đắt tiền, vào tất cả, cứ như cho hả giận. Thật là điên. Một người khác thì cảm thấy bị chạm nọc, sửng cồ: Sao lại không tức, họ sống ở bưng biền thiếu thốn đủ đường. Còn ở đây các người sống quá thừa thãi. Bỗng xe phanh khựng, có một xe Honda lái ẩu táp vào mũi, may không gây tai nạn. Nhưng xe phanh độc thì chết máy, “đề” mãi không nổ. Có ý kiến, nhờ mấy thanh niên uống trà đá bên đường đẩy hộ. Bác tài phẩy tay, hừm. Vậy làm cách sao? Bác tài bảo, cố chờ chút, coi bộ có mấy anh Giải phóng đi qua...

Có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ tôi. Tâm trạng của người Sài Gòn hậu 30 tháng tư rất hỗn tạp. Có nhiều người vui mà cũng có nhiều người chán, vừa tin lại vừa ngờ, nghe ngóng và chờ đợi. Cũng dễ hiểu. Viện trợ Mỹ đổ vào đã tạo nên sự phồn vinh giả tạo. Ngay như đồng bào ở cuối sông Tiền, nói với tôi, rằng định kỳ hằng tháng ngày mồng năm, họ cứ mang mảng ra vớt nhu yếu phẩm của lính Mỹ đổ xuống sông để thay hàng mới vào kho. Họ chưa nghĩ được nhiều như linh mục nhà báo Nguyễn Ngọc Lan, trừ những người thấm mùi mất tự do và độc lập.

- Cô cứ lo lo anh à - cô Bình bối rối hỏi tôi - liệu có “tắm máu” không?

- Trời! Cô nghĩ thế sao? Cô và anh Triệu đã bị dối lừa một lần vào năm 1954. Chúa có vô Nam đâu!

- Hỏi thế, nhưng cô chả tin.

Nhật ký của anh Triệu đã dựng nên một bộ phim tài liệu. Các chiến dịch giải phóng diễn ra cấp tập trong tháng ba và tháng tư. Đúng như tin chiến sự tôi đã khai thác từ Thông tấn xã Việt Nam để làm chương trình thời sự. Nhưng ở nhật ký của anh, đặc biệt hơn là có mô tả hình ảnh và cảm xúc: “... Cứ thấy trên đường phố Sài Gòn điều binh rầm rập. Máy bay không vận trên bầu trời Sài Gòn náo loạn. Tiếng súng lớn từ xa vọng về trong đêm khiến Sài Gòn mất ngủ. Trên gương mặt mỗi người Sài Gòn cứ bồn chồn, khấp khởi, chờ đợi một biến cố lớn. Gặp nhau là thì thào to nhỏ, như thật lại như hư. Càng đến ngày cuối tháng Tư, thì người ở các tỉnh cuồn cuộn kéo nhau dạt về Sài Gòn hỗn độn cứ như chạy hồng thủy. Tốc độ giải phóng như vũ bão, một bên thì thừa thắng xốc tới, một bên thì bạc nhược vỡ trận, như tấm vải mủn chạm đâu rách đó. Cho tới khi tiếng đạn bom ầm vang đến ven và giữa Sài Gòn, sự hoảng loạn đổ bể đến không ngờ, bắt đầu một cuộc di tản điên loạn bằng đường không và đường thủy, dẵm đạp lên nhau, giành giật nhau bất chấp, chẳng ai nhường ai, đã có người chết vì chen lấn...”.

Anh Triệu ướm hỏi tôi:

- Liệu cứ để hai miền, có tránh được thương vong?

- Năm còn hội đàm ở Pa-ri, luật sư Nguyễn Hữu Thọ có lần qua viếng thăm Tòa thánh Va-ti-căng. Đức Giáo hoàng Pôn VI cũng đã có ý kiến như vậy, và Người còn dùng tới thành ngữ “huynh đệ tương tàn”. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã thưa với Người rằng, đây là cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ. Và luật sư cũng đặt một câu hỏi với Giáo hoàng, rằng, nếu có một đội quân nào đó đến đánh chiếm Đất Thánh của Người, thì Người có bảo vệ không?

Cả nhà lặng im. Rồi chồng cô Bình nói:

- Tôi nghe có chuyện đó. Thời ông Thiệu. Kể cũng phải. Nếu không có Mỹ, thì hai năm sau năm 1954 đã có Tổng tuyển cử theo Hiệp định Giơ-ne-vơ.

Cô Bình phát nhẹ vào đùi chồng:

- Một tháng đi học tập không uổng! Ổng thiếu tá cũng đã vỡ ra nhiều điều.

Rồi cô Bình hướng qua tôi:

- Nhưng nhanh quá, không tưởng tượng nổi. Mỹ nó cũng chán chường, bỏ mặc ông Thiệu để chạy lấy người.

- Thưa cô. Chúa Giê-su đã chẳng trả lời quan Phi-la-tô, rằng, của Thiên Chúa thì trả về cho Thiên Chúa, còn của Cesar thì hãy trả lại cho Cesar đó sao? Đất Việt là của người Việt Nam mà.

Cả nhà cùng cười vang. Xem chừng đã hoàn toàn thoải mái. Anh Triệu ngắm lại tôi một lượt từ đầu tới chân, rồi nói:

- Nhà báo cộng sản, mà thuộc Phúc âm đến thế ư?

- Vâng. Phúc âm thời Giê-su là chân lý.

Vậy là sau 21 năm, gia đình họ tộc vợ tôi có sự đoàn tụ từ đấy, hậu 30 tháng tư năm 1975.

Có thể bạn quan tâm

Nhà báo Nguyễn Trọng Định - người đầu tiên từ bên phải qua. Ảnh tư liệu của Nhà báo Trần Mai Hạnh

Người ra đi từ gốc đa Hàng Trống

Trong bức ảnh được chụp ngày 14/7/1968 tại bộ phận tiền phương Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Đà thuộc địa bàn huyện Duy Xuyên có tám nhà báo thì sau đó bốn người là liệt sĩ, một người là thương binh nặng. Người hy sinh đầu tiên là nhà báo-nhà thơ Nguyễn Trọng Định, phóng viên Báo Nhân Dân, cùng trong tổ phóng viên vào chiến trường Quảng Đà một ngày với tôi", nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh hồi tưởng.
Lần họp lớp gần nhất là chuyến thăm Khu di tích lịch sử Bạch Đằng (Thủy Nguyên, TP Hải Phòng).

Trưởng thành nhờ đất nước và cùng đất nước

Tháng 6/2022 này, sinh viên Khoa Ngữ văn, khóa VIII, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) kỷ niệm 55 năm ra trường. Với lịch sử đất nước, 55 năm không dài. Nhưng quãng thời gian đó đủ để một thế hệ đi từ khởi điểm của tuổi thanh xuân đến cận kề những bậc thang cuối của đời người.

Người dân xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận thu hoạch trái thanh long. Ảnh: Duy Hiển

Ân tình miền cát

Mảnh vườn đang lên xanh-cái mầu xanh từ những cành thanh long vươn dài-của Quân là hình ảnh sống động và lưu lại đầu tiên trong tâm trí tôi khi về với náo nức đất trời Bình Thuận, trong những ngày cuối năm nhiều cảm xúc.

Nhà báo Trần Lâm.

Mùa thu với hai nhà báo lão thành

Kể từ mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đội ngũ báo chí cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đông về số lượng và tăng về chất lượng.

Nụ cười ấm giữa ngày giông bão

Thành phố lại vào mùa mưa. Những cơn mưa dầm dề suốt ngày cùng con số ca nhiễm tăng cao, thêm nhiều hình ảnh cay sống mũi, đỏ hoe mắt khiến người thành phố thao thức.

Người dân hẻm 17, đường Gò Dầu (phường Tân Quý, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh) đi chợ tại "Gian hàng 0 đồng sẻ chia cùng khu cách ly". Ảnh: HUẾ XUÂN

Sài Gòn ân nghĩa

Không ai hiểu rõ Sài Gòn bằng chính người Sài Gòn. Sự hào sảng, nghĩa tình, lạc quan của thành phố này đã khiến cái sự “trọng thương” mà người nơi khác ví von đã không còn là một cảm thán tội nghiệp. Tự bản thân người nơi đây sẽ biến nó thành một sự khích lệ, động viên, là một ân tình lớn lao, mà có lẽ phải trải qua “mùa dịch bệnh”, người ta mới càng thật sự thấm thía hết ý nghĩa của từ này.

Trái tim của tôi

Trái tim của tôi

Sau nhà tôi hồi xưa có một cái khe núi. Nhà tôi đã ở gần khe núi rồi, nhưng vẫn chưa phải là nhà cuối cùng. Cuối cùng là nhà một người Tày, nằm tận cửa khe núi luôn. Vào mùa đông, khe gần như cạn, những tảng đá to như lưng trâu nằm trơ trơ ra. Nhưng cuối xuân, đầu hè, khi những tiếng sấm bắt đầu ì ùng và mưa rào trút xuống, thì nước bắt đầu chảy len lỏi qua những khe đá, và đầy dần lên. Nếu mưa kéo dài chừng nửa ngày thì dòng suối sẽ như một con thuồng luồng dài ngoằng, dữ dội, lạnh lùng, cuốn phăng theo nó tất cả những gì nằm lổng chổng ven đường.

Miền sen và làng cổ

Làng cổ Nha Xá, xã Mộc Nam, Hà Nam nổi tiếng với những nếp nhà cổ và nghề dệt lụa. Người làng tự hào lắm một vùng quê yên bình, nằm giữa hệ thống ao, đầm sen rộng bát ngát.

11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN

Chiều 30 tháng 4, chúng tôi đến Sài Gòn

14 giờ ngày 30/4/1975, trên chiếc xe Jeep "lùn", chúng tôi - nhóm phóng viên báo Chiến sĩ Giải phóng - Quân đoàn 2, vào tới dinh Ðộc Lập. Lúc này sân trước Dinh đang ồn ã với số đông phóng viên báo chí và cán bộ, chiến sĩ ta.

Minh họa: THU HÀ

Cúi đầu trước núi

Tự dưng lúc này đây, khi đang ngồi dưới chân một dãy núi Tây Nguyên mà trong tôi lại trào lên cảm thức về những ngọn núi. Ðó có thể là nỗi ám ảnh mang mạch thở linh sơn đâu đó trong tâm tưởng. Ngắm núi mà muốn thốt lên lời tự lòng mình, ơi những chóp đỉnh cao vời, cho tôi xin được ngàn lần cúi đầu ngưỡng vọng…    

Tinh khôi hoa trắng

Về quê tôi dịp này có thể dễ dàng bắt gặp ở khắp các lối ngõ, bờ ao bừng lên một mầu trắng muốt tinh khôi của hoa dành dành. Mùi hương ngọt nồng dẫn lối đưa đường, dụ bao bướm ong dập dìu tụ tìm hút mật. Khi dành dành vào kỳ trổ hoa, ấy là mùa xuân cũng chuẩn bị khép lại.

Hà Nội mùa cây thay lá

Hà Nội mỗi mùa mang một sắc, mỗi con phố nhuốm một màu, thảy tất bốn mùa đều để lại cho ta cảm nhận những nét đẹp bâng khuâng trong sâu thẳm lòng mình mà khó có nơi nào có được. 

Cải vàng gọi nắng triền sông

Cuối năm, gió đã chuyển mình, cái rét len lỏi đâu đó trong từng nhành cây, ngọn cỏ. Hoa cải vào mùa, xôn xao rực vàng nơi triền sông vắng. Buổi chiều bỗng dài ra, lũ bướm ong tíu tít, mải mê bay lượn đến quên cả lối về.

Những ô cửa phố

Dịp cuối thu đầu đông, hương hoa sữa nồng nàn tỏa. Tôi có thói quen dạo phố một mình chỉ để nhẩn nha ngắm những ô cửa sổ, đôi khi ngỡ ngàng bởi chỉ là ô cửa sổ thôi cũng quá nhiều kiểu dáng thiết kế và mầu sắc trang trí. Rất nhiều ô cửa sổ nhìn ra đường, bên những ban-công được trồng nhiều khóm hoa xinh xắn. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cửa sổ có lẽ cũng là đôi mắt của ngôi nhà. Cửa sổ tạo mỹ quan cho không gian chung cả tuyến phố. Ở Hà Nội, các phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Phan Ðình Phùng, Nguyễn Gia Thiều… còn hiện diện nhiều ô cửa sổ nhuốm thời gian. Ở đó còn nhiều biệt thự cổ kính, những bức tường loang mầu hoài niệm, khi ấy những ô cửa như cũng trầm ngâm ưu tư, gợi nhắc về bao kỷ niệm xưa xa. Giữa một thành phố đông đúc, có lúc tắc đường đến ngộp thở, thì mỗi ô cửa này như những nốt nhạc trầm, đọng lại vẻ thi vị, thân thương

Mùa đông của cha

Ký ức sâu đậm trong chị về cha, gắn với thời tiết theo mùa. Tuổi ấu thơ của chị là những đêm hè lặng gió, oi nồng. Cha ngồi quạt đổi tay cho ba chị em đến khuya. Nhiều đêm, cha gần như không ngủ. Dạo ấy, điện là thứ xa xỉ, chỉ được dùng để thắp sáng trong mấy ngày Tết; còn lại, đèn dầu “làm bạn” với mọi nhà quanh năm, suốt tháng.

Bán thổ cẩm ở chợ Si Ma Cai. Ảnh: TUẤN LỢI

Si Ma Cai lên phố

Tháng 11-1966, xã Si Ma Cai (Lào Cai) được thành lập trên cơ sở ba thôn, gồm Phố Thầu, Phố Cũ, Phố Mới. Gọi là Phố nhưng thực chất ở đây, ngoài phiên chợ chủ nhật đông đúc, một dãy phố người Hoa ở phố cũ, Đồn Biên phòng, thì chỉ có mấy ngôi nhà gỗ dựng rải rác, vài cửa hàng mua bán đổi chác nông, lâm sản và vật dụng thiết yếu… song ba cái tên đã thể hiện khát khao lên phố của đồng bào. Qua nhiều năm xây dựng, phát triển, ngày 11-2-2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra quyết định thành lập thị trấn Si Ma Cai thuộc huyện Si Ma Cai.

Đỗ Đức Thắng (bên phải) và Hồ Văn Quang trong trận tiến công Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, Quảng Trị, tháng 4-1970. Ảnh: ĐOÀN CÔNG TÍNH

Người trong ảnh

Đến thăm các bảo tàng lịch sử ở Hà Nội và Thành cổ Quảng Trị, tôi đã nhìn thấy bức ảnh này: Hai người lính thông tin đang trong trận đánh đối mặt trực diện lực lượng địch. 

Đường hoa

Trời dịu nắng rủ tôi về làng, với những thân thương mà suốt thời tuổi thơ tôi và bạn bè đồng lứa có những trò chơi trẻ dại. Bao năm xa quê, có người phần nào “mất gốc” nhưng có những người vẫn đong đầy những ô vuông ký ức về làng như một thứ tài sản, soi mình vào hình ảnh của làng, của phố hay những cung đường đi qua để trân quý những vẻ đẹp thân thương, và để sống tốt hơn.

Vết thương

Vết thương

Trung tuần tháng 7-1972, trong trận phục kích đánh vào tiểu đoàn Bảo an của địch đến cứu viện cho đồn Tô Ma đang bị Tiểu đoàn 309 của ta bao vây, tôi bị thương khá nặng. Hôm đó, tôi vừa cầm khẩu AK bật dậy, thì một quả M79 của địch nổ phía trước tôi chừng chục mét.

Nước mắt của nữ chiến binh

Cô rất hay khóc. Tôi cũng hiểu. Dẫu cô nam tính, dẫu cô theo cách gọi cường điệu của tôi là một nữ tướng thì tướng vẫn có nước mắt.

Ngôi sao tháng bảy

Ngày tháng bảy bời bời xúc động khi cùng các bạn trẻ đoàn thanh niên của xã đến thăm mẹ. Mẹ là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, là niềm tự hào của xã Anh hùng quê tôi - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu nước, đã dâng hiến nhiều người con ưu tú cho Tổ quốc. Người dân quê chúng tôi vẫn thân thương gọi mẹ Hiền là bà Hến. Mẹ Hiền hiền lắm. Hiền như hoa trái trong vườn. Hiền như tên gọi mà mỗi khi cất lên đã chất chứa niềm nhân hậu.

Hoa ngọc lan vườn mẹ

Nhà tôi ở trong phố nên đất rất chật, mặt trước và mặt sau của ngôi nhà dài như ống tay áo, mẹ tôi cho người ta thuê để bán hàng. Ngõ dẫn vào khu giữa ngôi nhà nơi gia đình tôi sinh sống nhỏ như sợi chỉ khâu ở viền ống tay áo.

 Tượng đài Bác Hồ trên đảo Cô Tô (Quảng Ninh) Ảnh: Phạm Học

Mãi còn lưu dấu

1. Năm 1970, Tòa soạn báo Vùng mỏ chúng tôi được ông Ðỗ Thế Việt, cán bộ kháng chiến hoạt động ở khu mỏ Hồng Gai chuyển tới tấm thiếp của Bác Hồ gửi công nhân khu mỏ Hồng Gai năm 1953. Trong thư gửi kèm, ông Việt viết: "… Năm 1951, Công đoàn đặc khu Hồng Gai chúng tôi có gửi lên Việt Bắc biếu Bác Hồ một chiếc màn (quà biếu của một chị công nhân) và một bức tượng Bác bằng than đá do anh Trần Văn Mão, thợ mỏ Cẩm Phả tạc trong những ngày anh làm phu xe cuốc. Thì tháng 3-1953, Công đoàn đặc khu Hồng Gai nhận được tấm thiếp này của Bác Hồ từ Việt Bắc gửi về cảm ơn. Nay tôi thấy cần phải gửi về cho các đồng chí, mong được giới thiệu lại với công nhân khu mỏ về một bút tích quý giá của Bác…".

Những mùa hoa đậu biếc

Tôi nhận ra mầu tím hoa đậu biếc đang lấp lánh trong ly trà trước mặt mình. Trà hoa đậu biếc. Mầu tím ấy, thức dậy ký ức một thời tuổi thơ tôi trong vắt, bình yên.

Công suất các khu xử lý rác hiện nay chưa đáp ứng để thu gom và xử lý triệt để rác thải trên địa bàn thành phố.

Gỡ nút thắt quy hoạch, xử lý rác thải ở Hà Nội

Kỳ 2: Rà soát năng lực, đẩy nhanh tiến độ thực hiện

(Tiếp theo và hết)

Trong Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt từ tháng 10-2016, đã tính đến sự phối hợp vùng trong xử lý rác thải một số tỉnh chung quanh Thủ đô. Vấn đề quan trọng nhất là sự đồng thuận của nhân dân, nỗ lực của các cơ quan chức năng, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện dự án.

Những sắc thái của trường ca

Nghĩ về trường ca Việt Nam hiện đại, tôi rất tâm đắc với ý kiến của TS Chu Văn Sơn: "Khi thơ trữ tình muốn trình bày những suy cảm về những vận động lớn lao, thậm chí, kỳ vĩ của đời sống bằng một hình thức lớn, khi ấy trường ca xuất hiện. Nói gọn hơn, khi thơ trữ tình muốn chiếm lĩnh thực tại ở cấp độ cái kỳ vĩ thì trường ca bắt đầu lên tiếng". Sau ngày đất nước thống nhất, trường ca ngày càng nở rộ. Có một thế hệ những nhà thơ đã đi qua chiến tranh và tìm đến trường ca như một cuộc đại kiểm kê, một lời tâm sự lớn trước những biến cố lịch sử: Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Nguyễn Ðức Mậu, Từ Nguyên Tĩnh, Lê Mạnh Tuấn, Phạm Hồ Thu, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo, Trần Anh Thái, Thi Hoàng… Và, những người trẻ tuổi hơn đang tiếp nối mạch nguồn thể loại ấy hôm nay: Nguyễn Quang Hưng, Ðoàn Văn Mật, Lý Hữu Lương, Thy Nguyên…