Mùa thu với hai nhà báo lão thành

Kể từ mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đội ngũ báo chí cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đông về số lượng và tăng về chất lượng.

Nhà báo Trần Lâm.
Nhà báo Trần Lâm.

Theo quy luật thời gian, số người cầm bút trẻ tuổi được bổ sung đông đảo, còn số người làm báo từ mùa thu năm ấy, có người đã khuất núi, nhưng số đông vẫn còn đó, dù sức khỏe có giảm sút, nhưng trí tuệ vẫn minh mẫn, lòng yêu nghề báo vẫn dâng trào, một số người vẫn tiếp tục “nhả tơ” cho đời bằng những bài viết chuyên sâu, tạo ấn tượng tích cực với xã hội. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ đề cập hai nhà báo lão thành có những đóng góp quan trọng cho ngành phát thanh, truyền hình từ những ngày đầu Nhà nước ta ra đời trong bối cảnh vô cùng cam go và đầy thách thức - đó là hai nhà báo Trần Lâm và Phan Quang.

Vào dịp kỷ niệm 76 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 năm nay, tôi có dịp qua Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội; được ngắm kỹ một công trình văn hóa - lịch sử đã đứng đây qua nắng mưa dầu dãi hơn thế kỷ. Nhìn rừng cờ đỏ sao vàng treo khắp các cơ quan, gia đình, bất giác tôi liên tưởng đến lá cờ đỏ sao vàng cực lớn được treo tại tầng hai ở Nhà hát này cách đây 76 năm, mà người tham gia thực hiện sự kiện ấy chính là anh thanh niên trí thức yêu nước Trần Lâm (quê Hải Dương) cùng với một số đội viên Đội tuyên truyền TNXP nội thành Hà Nội. Ngày 22/8/1945, thực hiện chỉ đạo của Bác Hồ, đồng chí Trần Lâm cùng các đồng chí Trần Kim Xuyến và Trần Văn Tính nhận nhiệm vụ gấp rút thành lập Đài Tiếng nói Việt Nam. Ngày 2/9/1945, Bác Hồ trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định trước đồng bào cả nước và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”. Từ ngày đó, cái tên Việt Nam thiêng liêng đã được ghi trên bản đồ thế giới. Chỉ năm ngày sau lễ Quốc khánh, ngày 7/9, Đài Tiếng nói Việt Nam chính thức phát sóng với nhạc hiệu rộn ràng của bài Diệt phát xít hùng tráng cùng giọng đọc đĩnh đạc, trang trọng của phát thanh viên: Những lời thiêng liêng ấy gây xúc động hàng triệu trái tim người Việt Nam từng bị phong kiến, thực dân, phát-xít áp bức, bóc lột, “một cổ ba tròng”; từ đất nước lầm than, nô lệ đã “rũ bùn đứng dậy” làm chủ đất nước mình, số phận mình! 76 năm qua, đoạn nhạc hiệu mở đầu chương trình ngày mới ấy của Đài Tiếng nói Việt Nam đã thấm vào trái tim, khối óc, thành niềm tự hào lớn lao và sức mạnh tinh thần vô song của mỗi người dân đất Việt vững vàng vượt qua mọi gian nguy để độc lập dân tộc mãi trường tồn, để cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc. Khó có thể quên trong những ngày đêm tháng 12/1972, đế quốc Mỹ đã thực hiện hủy diệt Hà Nội bằng máy bay B52 rải bom nhiều phố phường, làng mạc, trong đó có Đài phát sóng Mễ Trì. Cán bộ, chiến sĩ, đồng bào cả nước và nhân loại tiến bộ đã trải qua chín phút hồi hộp, lo âu khi sóng đài bị đứt đoạn vì bom. Chín phút trôi chậm chạp, tim chúng ta như ngừng đập! Nhưng rồi bằng lòng quả cảm và trí tuệ của các kỹ thuật viên, sự cố ấy đã nhanh chóng được khắc phục; và chỉ sau chín phút, nhạc hiệu cùng lời phát thanh viên quen thuộc lại dõng dạc truyền đi khắp năm châu: “Đây là tiếng nói Việt Nam…”.

Lịch sử có những điều ngẫu nhiên kỳ thú: chỉ sau 25 năm ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, cùng vào một ngày mùa thu - ngày 7/9/1970, Đài Truyền hình Việt Nam ra đời, đúng lúc cuộc chiến đấu giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc bước vào giai đoạn cam go nhất. Nhưng cũng chính thời điểm ấy, đồng bào, chiến sĩ cả nước vừa được nghe sóng phát thanh, vừa được trực tiếp xem những hình ảnh lao động, chiến đấu, học tập của toàn Đảng, toàn dân qua màn ảnh truyền hình.

Mùa thu với hai nhà báo lão thành -0
Nhà báo Phan Quang. 

Hình thành và phát triển hai công cụ chủ lực - phát thanh và truyền hình của nền báo chí cách mạng Việt Nam, chúng ta ghi ơn “kiến trúc sư trưởng”, người đóng vai trò chủ lực và tiên phong ấy là nhà báo Trần Lâm, đã bền bỉ, sáng tạo hơn sáu thập niên, từ xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật đến đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Chúng ta xúc động khi được biết, Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam trong hai nhiệm kỳ gần đây là con trai ông Trần Lâm - đồng chí Trần Bình Minh. Và hiện nay, con trai anh Trần Bình Minh là Trần Việt Hoàng, sinh năm 1987, hiện là Trưởng phòng Văn hóa - Xã hội, đã và đang là một trong những cán bộ với nhiều khát vọng đổi mới và tinh thần năng động, sáng tạo trong xây dựng và thực hiện một số chương trình văn hóa - nghệ thuật, tạo được dấu ấn riêng. Đúng là “Lớp cha trước, lớp con sau/ Đã thành đồng chí, chung câu quân hành...”.

Nói về sự nghiệp phát thanh hiện đại, chúng ta không quên nhắc đến một trong những cây đại thụ của báo chí cách mạng Việt Nam - đó là nhà báo, nhà văn Phan Quang. Ông chào đời đúng vào tháng đầu thu năm 1928 trên vùng đất Quảng Trị nắng lửa và sỏi đá, “những đồi sim không đủ quả nuôi người”. Tôi nhớ mãi, cũng vào ngày đầu thu cách đây ba năm, tại trụ sở Đài Tiếng nói Việt Nam ở 58 phố Quán Sứ, Hà Nội, ban lãnh đạo Đài đã tổ chức kỷ niệm 73 năm Ngày thành lập; tiếp sau đó là buổi Tọa đàm thân mật mừng nhà báo Phan Quang, nguyên Tổng Giám đốc VOV, tròn 90 tuổi đời và 70 tuổi nghề. Những phát biểu chân thành, xúc động, không chỉ từ phía những đồng nghiệp làm báo qua các thế hệ, mà còn có nhiều đại diện khác, đã khẳng định công lao to lớn của Phan Quang trong việc xây dựng và phát triển nền báo chí cách mạng Việt Nam, trong đó có sự nghiệp phát thanh. Có lẽ, trong làng báo Việt Nam, Phan Quang là một trong số những người có thâm niên làm báo chuyên nghiệp lâu năm (70 năm), kể từ ngày ông rời xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng đi tham gia cách mạng; sau đó được tuyển vào làm phóng viên báo Cứu quốc Liên khu IV dưới sự dẫn dắt của Tổng Biên tập, nhà văn Chế Lan Viên. Sáu năm sau đó, cũng vào một ngày mùa thu giải phóng Thủ đô (10/10/1954), với sự lựa chọn kỹ càng của tổ chức, ông được phân công về Báo Nhân Dân, cơ quan Trung ương của Đảng, chuyên viết về mảng kinh tế, nhất là về nông nghiệp. Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị khóa VI ra Nghị quyết số 10 “Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” (thường gọi là khoán 10), có đóng góp tích cực của báo Đảng, trong đó có vai trò của Trưởng ban Nông nghiệp - nhà báo Phan Quang từ trước đó, khi tham mưu giúp Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100. Sau khi nước nhà thống nhất, những phóng sự dài kỳ về nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long, tạo vị trí xứng đáng trong nhiệm vụ định hướng tư tưởng của tờ báo Đảng. 18 năm gắn bó với tờ báo lớn nhất, ông đã làm nhiệm vụ Trưởng ban ở nhiều lĩnh vực kinh tế, xây dựng Đảng… Từ cương vị là Ủy viên Ban Biên tập nhiều năm, ông được Ban Bí thư điều động làm Vụ trưởng Báo chí - Ban Tuyên huấn T.Ư. Tiếp đó, ông làm Thứ trưởng Thông tin, rồi làm Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam. Trên cương vị là Tổng Giám đốc, ông cùng Ban lãnh đạo VOV đề nghị Ban Bí thư bổ sung chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, hình thành một số chuyên mục mới, nâng cao chất lượng các chương trình, hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật. Cùng lúc với cương vị Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, đại biểu Quốc hội, ông chủ động đề xuất và là người chủ biên Dự thảo Luật Báo chí Việt Nam và Luật đã được Quốc hội thông qua vào tháng 12/1989. Phan Quang, không chỉ là nhà báo, nhà văn, mà còn là dịch giả lớn, với nhiều cuốn sách được hàng triệu bạn đọc cả nước yêu mến, mà tiêu biểu là cuốn “Nghìn lẻ một đêm” đã được tái bản hàng chục lần. Các học giả quốc tế chuyên nghiên cứu về Việt Nam, coi ông là chính khách lớn, là nhịp cầu văn hóa, hữu nghị của Việt Nam với thế giới, nhất là ở thời điểm ông là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội trong ba khóa liên tục.

Mùa thu về, chúng ta vừa vui, vừa tiếc nuối nhiều nhà báo tài năng, như Xuân Thủy, Hoàng Tùng, Trần Lâm, Thép Mới, Hồng Hà, Hữu Thọ… đã về với cõi âm. Nhưng còn đó, Phan Quang, Hà Đăng (hai người vừa được Đảng, Nhà nước tôn vinh là “Nhà báo tiêu biểu”; còn đó các nhà báo tiếng tăm: Thái Duy, Hồ Tiến Nghị, Phạm Khắc Lâm, Kim Cúc… và hàng chục người khác vẫn đang nặng lòng với nghề và dành sự tâm huyết, trách nhiệm, đã và đang góp ý, gợi mở giúp thế hệ trẻ làm báo hôm nay về kinh nghiệm trong thao tác nghiệp vụ báo chí…

Viết đến đây, tôi nhớ bài tùy bút của cựu nhà báo, nhà văn Thép Mới trong thời chống Mỹ, cứu nước: “Mùa thu - cây lúa và cây súng”. Đây là một trong những bài báo mà tôi tâm đắc nhất, vì vậy đang gợi mở ý định cho tôi viết một bài về “Mùa thu - cây bút và Covid” nhằm gửi tâm tình, sự trân trọng của tôi đối với các nhà báo đang hăng hái xông vào tâm dịch, không quản hiểm nguy tính mệnh, để ghi hình và viết bài, phản ánh sinh động, đa dạng những việc làm cao đẹp của con người Việt Nam đang chung lòng, hợp sức đẩy lùi đại dịch.

Một mùa thu với bao gian nan và thách đố trong cuộc chiến đẩy lùi đại dịch có tính toàn cầu, nhưng đang nuôi dưỡng niềm tin và hy vọng vào sức mạnh của dân tộc ta bởi lòng yêu nước và khát vọng dựng xây Tổ quốc giàu mạnh, hùng cường; mà đội quân báo chí cách mạng là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng, theo gương hai nhà báo lão thành, đã và đang toàn tâm cổ vũ cho mục tiêu thiêng liêng ấy sớm thành hiện thực trên đất nước Việt Nam yêu dấu! ■

Hà Nội, ngày 11/9/2021

N.H.V

Có thể bạn quan tâm

Nhà báo Nguyễn Trọng Định - người đầu tiên từ bên phải qua. Ảnh tư liệu của Nhà báo Trần Mai Hạnh

Người ra đi từ gốc đa Hàng Trống

Trong bức ảnh được chụp ngày 14/7/1968 tại bộ phận tiền phương Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Đà thuộc địa bàn huyện Duy Xuyên có tám nhà báo thì sau đó bốn người là liệt sĩ, một người là thương binh nặng. Người hy sinh đầu tiên là nhà báo-nhà thơ Nguyễn Trọng Định, phóng viên Báo Nhân Dân, cùng trong tổ phóng viên vào chiến trường Quảng Đà một ngày với tôi", nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh hồi tưởng.
Lần họp lớp gần nhất là chuyến thăm Khu di tích lịch sử Bạch Đằng (Thủy Nguyên, TP Hải Phòng).

Trưởng thành nhờ đất nước và cùng đất nước

Tháng 6/2022 này, sinh viên Khoa Ngữ văn, khóa VIII, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) kỷ niệm 55 năm ra trường. Với lịch sử đất nước, 55 năm không dài. Nhưng quãng thời gian đó đủ để một thế hệ đi từ khởi điểm của tuổi thanh xuân đến cận kề những bậc thang cuối của đời người.

Người dân xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận thu hoạch trái thanh long. Ảnh: Duy Hiển

Ân tình miền cát

Mảnh vườn đang lên xanh-cái mầu xanh từ những cành thanh long vươn dài-của Quân là hình ảnh sống động và lưu lại đầu tiên trong tâm trí tôi khi về với náo nức đất trời Bình Thuận, trong những ngày cuối năm nhiều cảm xúc.

Nụ cười ấm giữa ngày giông bão

Thành phố lại vào mùa mưa. Những cơn mưa dầm dề suốt ngày cùng con số ca nhiễm tăng cao, thêm nhiều hình ảnh cay sống mũi, đỏ hoe mắt khiến người thành phố thao thức.

Người dân hẻm 17, đường Gò Dầu (phường Tân Quý, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh) đi chợ tại "Gian hàng 0 đồng sẻ chia cùng khu cách ly". Ảnh: HUẾ XUÂN

Sài Gòn ân nghĩa

Không ai hiểu rõ Sài Gòn bằng chính người Sài Gòn. Sự hào sảng, nghĩa tình, lạc quan của thành phố này đã khiến cái sự “trọng thương” mà người nơi khác ví von đã không còn là một cảm thán tội nghiệp. Tự bản thân người nơi đây sẽ biến nó thành một sự khích lệ, động viên, là một ân tình lớn lao, mà có lẽ phải trải qua “mùa dịch bệnh”, người ta mới càng thật sự thấm thía hết ý nghĩa của từ này.

Trái tim của tôi

Trái tim của tôi

Sau nhà tôi hồi xưa có một cái khe núi. Nhà tôi đã ở gần khe núi rồi, nhưng vẫn chưa phải là nhà cuối cùng. Cuối cùng là nhà một người Tày, nằm tận cửa khe núi luôn. Vào mùa đông, khe gần như cạn, những tảng đá to như lưng trâu nằm trơ trơ ra. Nhưng cuối xuân, đầu hè, khi những tiếng sấm bắt đầu ì ùng và mưa rào trút xuống, thì nước bắt đầu chảy len lỏi qua những khe đá, và đầy dần lên. Nếu mưa kéo dài chừng nửa ngày thì dòng suối sẽ như một con thuồng luồng dài ngoằng, dữ dội, lạnh lùng, cuốn phăng theo nó tất cả những gì nằm lổng chổng ven đường.

Miền sen và làng cổ

Làng cổ Nha Xá, xã Mộc Nam, Hà Nam nổi tiếng với những nếp nhà cổ và nghề dệt lụa. Người làng tự hào lắm một vùng quê yên bình, nằm giữa hệ thống ao, đầm sen rộng bát ngát.

11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN

Chiều 30 tháng 4, chúng tôi đến Sài Gòn

14 giờ ngày 30/4/1975, trên chiếc xe Jeep "lùn", chúng tôi - nhóm phóng viên báo Chiến sĩ Giải phóng - Quân đoàn 2, vào tới dinh Ðộc Lập. Lúc này sân trước Dinh đang ồn ã với số đông phóng viên báo chí và cán bộ, chiến sĩ ta.

Minh họa: THU HÀ

Cúi đầu trước núi

Tự dưng lúc này đây, khi đang ngồi dưới chân một dãy núi Tây Nguyên mà trong tôi lại trào lên cảm thức về những ngọn núi. Ðó có thể là nỗi ám ảnh mang mạch thở linh sơn đâu đó trong tâm tưởng. Ngắm núi mà muốn thốt lên lời tự lòng mình, ơi những chóp đỉnh cao vời, cho tôi xin được ngàn lần cúi đầu ngưỡng vọng…    

Tinh khôi hoa trắng

Về quê tôi dịp này có thể dễ dàng bắt gặp ở khắp các lối ngõ, bờ ao bừng lên một mầu trắng muốt tinh khôi của hoa dành dành. Mùi hương ngọt nồng dẫn lối đưa đường, dụ bao bướm ong dập dìu tụ tìm hút mật. Khi dành dành vào kỳ trổ hoa, ấy là mùa xuân cũng chuẩn bị khép lại.

Hà Nội mùa cây thay lá

Hà Nội mỗi mùa mang một sắc, mỗi con phố nhuốm một màu, thảy tất bốn mùa đều để lại cho ta cảm nhận những nét đẹp bâng khuâng trong sâu thẳm lòng mình mà khó có nơi nào có được. 

Cải vàng gọi nắng triền sông

Cuối năm, gió đã chuyển mình, cái rét len lỏi đâu đó trong từng nhành cây, ngọn cỏ. Hoa cải vào mùa, xôn xao rực vàng nơi triền sông vắng. Buổi chiều bỗng dài ra, lũ bướm ong tíu tít, mải mê bay lượn đến quên cả lối về.

Những ô cửa phố

Dịp cuối thu đầu đông, hương hoa sữa nồng nàn tỏa. Tôi có thói quen dạo phố một mình chỉ để nhẩn nha ngắm những ô cửa sổ, đôi khi ngỡ ngàng bởi chỉ là ô cửa sổ thôi cũng quá nhiều kiểu dáng thiết kế và mầu sắc trang trí. Rất nhiều ô cửa sổ nhìn ra đường, bên những ban-công được trồng nhiều khóm hoa xinh xắn. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cửa sổ có lẽ cũng là đôi mắt của ngôi nhà. Cửa sổ tạo mỹ quan cho không gian chung cả tuyến phố. Ở Hà Nội, các phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Phan Ðình Phùng, Nguyễn Gia Thiều… còn hiện diện nhiều ô cửa sổ nhuốm thời gian. Ở đó còn nhiều biệt thự cổ kính, những bức tường loang mầu hoài niệm, khi ấy những ô cửa như cũng trầm ngâm ưu tư, gợi nhắc về bao kỷ niệm xưa xa. Giữa một thành phố đông đúc, có lúc tắc đường đến ngộp thở, thì mỗi ô cửa này như những nốt nhạc trầm, đọng lại vẻ thi vị, thân thương

Mùa đông của cha

Ký ức sâu đậm trong chị về cha, gắn với thời tiết theo mùa. Tuổi ấu thơ của chị là những đêm hè lặng gió, oi nồng. Cha ngồi quạt đổi tay cho ba chị em đến khuya. Nhiều đêm, cha gần như không ngủ. Dạo ấy, điện là thứ xa xỉ, chỉ được dùng để thắp sáng trong mấy ngày Tết; còn lại, đèn dầu “làm bạn” với mọi nhà quanh năm, suốt tháng.

Bán thổ cẩm ở chợ Si Ma Cai. Ảnh: TUẤN LỢI

Si Ma Cai lên phố

Tháng 11-1966, xã Si Ma Cai (Lào Cai) được thành lập trên cơ sở ba thôn, gồm Phố Thầu, Phố Cũ, Phố Mới. Gọi là Phố nhưng thực chất ở đây, ngoài phiên chợ chủ nhật đông đúc, một dãy phố người Hoa ở phố cũ, Đồn Biên phòng, thì chỉ có mấy ngôi nhà gỗ dựng rải rác, vài cửa hàng mua bán đổi chác nông, lâm sản và vật dụng thiết yếu… song ba cái tên đã thể hiện khát khao lên phố của đồng bào. Qua nhiều năm xây dựng, phát triển, ngày 11-2-2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra quyết định thành lập thị trấn Si Ma Cai thuộc huyện Si Ma Cai.

Đỗ Đức Thắng (bên phải) và Hồ Văn Quang trong trận tiến công Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, Quảng Trị, tháng 4-1970. Ảnh: ĐOÀN CÔNG TÍNH

Người trong ảnh

Đến thăm các bảo tàng lịch sử ở Hà Nội và Thành cổ Quảng Trị, tôi đã nhìn thấy bức ảnh này: Hai người lính thông tin đang trong trận đánh đối mặt trực diện lực lượng địch. 

Đường hoa

Trời dịu nắng rủ tôi về làng, với những thân thương mà suốt thời tuổi thơ tôi và bạn bè đồng lứa có những trò chơi trẻ dại. Bao năm xa quê, có người phần nào “mất gốc” nhưng có những người vẫn đong đầy những ô vuông ký ức về làng như một thứ tài sản, soi mình vào hình ảnh của làng, của phố hay những cung đường đi qua để trân quý những vẻ đẹp thân thương, và để sống tốt hơn.

Vết thương

Vết thương

Trung tuần tháng 7-1972, trong trận phục kích đánh vào tiểu đoàn Bảo an của địch đến cứu viện cho đồn Tô Ma đang bị Tiểu đoàn 309 của ta bao vây, tôi bị thương khá nặng. Hôm đó, tôi vừa cầm khẩu AK bật dậy, thì một quả M79 của địch nổ phía trước tôi chừng chục mét.

Nước mắt của nữ chiến binh

Cô rất hay khóc. Tôi cũng hiểu. Dẫu cô nam tính, dẫu cô theo cách gọi cường điệu của tôi là một nữ tướng thì tướng vẫn có nước mắt.

Ngôi sao tháng bảy

Ngày tháng bảy bời bời xúc động khi cùng các bạn trẻ đoàn thanh niên của xã đến thăm mẹ. Mẹ là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, là niềm tự hào của xã Anh hùng quê tôi - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu nước, đã dâng hiến nhiều người con ưu tú cho Tổ quốc. Người dân quê chúng tôi vẫn thân thương gọi mẹ Hiền là bà Hến. Mẹ Hiền hiền lắm. Hiền như hoa trái trong vườn. Hiền như tên gọi mà mỗi khi cất lên đã chất chứa niềm nhân hậu.

Hoa ngọc lan vườn mẹ

Nhà tôi ở trong phố nên đất rất chật, mặt trước và mặt sau của ngôi nhà dài như ống tay áo, mẹ tôi cho người ta thuê để bán hàng. Ngõ dẫn vào khu giữa ngôi nhà nơi gia đình tôi sinh sống nhỏ như sợi chỉ khâu ở viền ống tay áo.

 Tượng đài Bác Hồ trên đảo Cô Tô (Quảng Ninh) Ảnh: Phạm Học

Mãi còn lưu dấu

1. Năm 1970, Tòa soạn báo Vùng mỏ chúng tôi được ông Ðỗ Thế Việt, cán bộ kháng chiến hoạt động ở khu mỏ Hồng Gai chuyển tới tấm thiếp của Bác Hồ gửi công nhân khu mỏ Hồng Gai năm 1953. Trong thư gửi kèm, ông Việt viết: "… Năm 1951, Công đoàn đặc khu Hồng Gai chúng tôi có gửi lên Việt Bắc biếu Bác Hồ một chiếc màn (quà biếu của một chị công nhân) và một bức tượng Bác bằng than đá do anh Trần Văn Mão, thợ mỏ Cẩm Phả tạc trong những ngày anh làm phu xe cuốc. Thì tháng 3-1953, Công đoàn đặc khu Hồng Gai nhận được tấm thiếp này của Bác Hồ từ Việt Bắc gửi về cảm ơn. Nay tôi thấy cần phải gửi về cho các đồng chí, mong được giới thiệu lại với công nhân khu mỏ về một bút tích quý giá của Bác…".

Nhật ký của một người Công giáo

Nhật ký của một người Công giáo

Cuối cùng tôi cũng đã tìm được nhà anh Triệu ở một phố hẻm quận Tân Bình. Sài Gòn mới được giải phóng. Thành phố tôi lần đầu đặt chân, nhưng lòng thì đã đến.

Những mùa hoa đậu biếc

Tôi nhận ra mầu tím hoa đậu biếc đang lấp lánh trong ly trà trước mặt mình. Trà hoa đậu biếc. Mầu tím ấy, thức dậy ký ức một thời tuổi thơ tôi trong vắt, bình yên.

Công suất các khu xử lý rác hiện nay chưa đáp ứng để thu gom và xử lý triệt để rác thải trên địa bàn thành phố.

Gỡ nút thắt quy hoạch, xử lý rác thải ở Hà Nội

Kỳ 2: Rà soát năng lực, đẩy nhanh tiến độ thực hiện

(Tiếp theo và hết)

Trong Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt từ tháng 10-2016, đã tính đến sự phối hợp vùng trong xử lý rác thải một số tỉnh chung quanh Thủ đô. Vấn đề quan trọng nhất là sự đồng thuận của nhân dân, nỗ lực của các cơ quan chức năng, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện dự án.

Những sắc thái của trường ca

Nghĩ về trường ca Việt Nam hiện đại, tôi rất tâm đắc với ý kiến của TS Chu Văn Sơn: "Khi thơ trữ tình muốn trình bày những suy cảm về những vận động lớn lao, thậm chí, kỳ vĩ của đời sống bằng một hình thức lớn, khi ấy trường ca xuất hiện. Nói gọn hơn, khi thơ trữ tình muốn chiếm lĩnh thực tại ở cấp độ cái kỳ vĩ thì trường ca bắt đầu lên tiếng". Sau ngày đất nước thống nhất, trường ca ngày càng nở rộ. Có một thế hệ những nhà thơ đã đi qua chiến tranh và tìm đến trường ca như một cuộc đại kiểm kê, một lời tâm sự lớn trước những biến cố lịch sử: Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Nguyễn Ðức Mậu, Từ Nguyên Tĩnh, Lê Mạnh Tuấn, Phạm Hồ Thu, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo, Trần Anh Thái, Thi Hoàng… Và, những người trẻ tuổi hơn đang tiếp nối mạch nguồn thể loại ấy hôm nay: Nguyễn Quang Hưng, Ðoàn Văn Mật, Lý Hữu Lương, Thy Nguyên…