Dinh tỉnh trưởng Quảng Trị, nơi cờ đỏ sao vàng được Chính quyền cách mạng cắm trên nóc ngày 23/8/1945. (Ảnh tư liệu)
Dinh tỉnh trưởng Quảng Trị, nơi cờ đỏ sao vàng được Chính quyền cách mạng cắm trên nóc ngày 23/8/1945. (Ảnh tư liệu)

Người thầy, người thủ lĩnh kháng chiến khoan dung Trương Quang Phiên

Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Quảng Trị ở chiến khu xưa Ba Lòng xưa là Trương Quang Phiên, người làng Mai Xá, xã Gio Mai, nay xã Cửa Việt, tỉnh Quảng Trị. Cuộc đời cách mạng của ông Trương Quang Phiên là một câu chuyện đầy tình người, luôn có trách nhiệm cao cả với quê hương, đất nước. 

Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, chuyện về ông Trương Quang Phiên được kể lại khiến nhiều người xúc động, thán phục. 80 năm trước, thời cơ của mùa thu cách mạng đã đến, ngày 18/8/1945, Hội nghị toàn tỉnh Quảng Trị thống nhất lực lượng bàn việc khởi nghĩa giành chính quyền về tay cách mạng.

LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN GIÀNH CHÍNH QUYỀN

Ông Trương Quang Phiên được giao nhiệm vụ tổ chức giành chính quyền ở Quảng Trị. Ngày 23/8/1945, ông Phiên tập hợp đông đảo dân làng Mai Xá kéo lên tỉnh phối hợp cùng các địa phương khác treo cờ cách mạng lên Tòa Công sứ cũ. Khắp nơi trong tỉnh Quảng Trị lúc ấy, làng quê nào cũng phất cờ khởi nghĩa.

ong-phien-2.jpg
Ông Trương Quang Phiên. (Ảnh Tư liệu)

Sáng 23/8/1945, cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc được đại diện Ủy ban khởi nghĩa tỉnh treo lên Dinh Tỉnh trưởng Quảng Trị, đánh dấu thắng lợi của khởi nghĩa giành chính quyền.

Trước đó để chuẩn bị lực lượng cách mạng, Chi hội Thanh niên Cách mạng đồng chí hội huyện Gio Linh được ra đời vào năm 1927, ông Trương Quang Phiên cùng gia đình tham gia ngay từ đầu.

Thực dân Pháp truy lùng gắt gao, năm 1929 nhiều hội viên bị bắt, ông Trương Quang Phiên bị kết án tù giam tại nhà lao Thành cổ Quảng Trị.

Sau khi mãn hạn tù, năm 1933 ông Trương Quang Phiên mở lớp dạy học có tên gọi gia đình “Học hiệu Tiên Việt” dạy con em trong làng. Đây là một trong rất ít lớp học chữ quốc ngữ đầu tiên tại Quảng Trị.

ong-phien-1.jpg
Di tích lịch sử đình làng Mai Xá ( bên phải), nơi ông Trương Quang Phiên tập hợp nhân dân kéo lên tỉnh giành chính quyền vào tháng 8/1945. (Ảnh: Lâm Quang Huy)

Gia đình “Học hiệu Tiên Việt” không chỉ đơn thuần là lớp học mà còn là nơi tụ nghĩa. Ngoài dạy chữ, ông Phiên còn là người thầy cách mạng của bao thế hệ trẻ.

Những sáng kiến dạy học từ những năm ấy của ông Phiên đã được áp dụng khắp địa phương Quảng Trị trong những ngày mới khởi nghĩa. Nhờ vậy, chưa đầy một năm sau Cách mạng Tháng Tám, Quảng Trị đã có hàng vạn người đọc thông viết thạo.

KHOAN DUNG, ĐỘ LƯỢNG

Ngày 14/4/1947, Hội nghị Tỉnh ủy họp ở vùng núi huyện Triệu Phong nhận định tình hình, quyết định thiết lập chiến khu để ổn định và tập trung địa điểm của cơ quan lãnh đạo tỉnh.

Chiến khu Ba Lòng nay thuộc xã An toàn khu Ba Lòng được ra đời trong hoàn cảnh ấy.

ong-phien-4.jpg
Ông Trương Quang Đệ (bên phải) con trai thứ của ông Trương Quang Phiên. (Ảnh tư liệu)

Cuộc họp của tỉnh bàn nhiều nội dung cần kíp trước mắt. Đáng chú ý, ông Phiên đề nghị phóng thích toàn bộ 300 phạm nhân đang bị giam giữ vì họ là những dân thường vô tội. “Tôi đề nghị phóng thích toàn bộ những ai bị giam giữ ở nhà lao Quảng Trị ngay ngày hôm nay. Nếu sau này có ai trong họ làm gì phản dân hại nước thì các anh đem tôi ra xử tội”, tư liệu gia đình ông còn lưu giữ ghi rõ.

Sang năm 1948, ông Trương Quang Phiên được cử làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Quảng Trị. Nhận cương vị mới được vài ba tháng, ông Phiên gặp một sự kiện chưa có tiền lệ, cần phải suy nghĩ nhiều mới tìm ra hướng giải quyết.

Hôm đó đội cảnh vệ dẫn một đoàn khách đến nơi ông làm việc, đó là túp lều tranh ẩn náu dưới một lùm cây rừng rậm rạp. Đoàn khách có sáu cụ già, dáng thanh tao nho nhã, ăn mặc theo lối cổ. Ông Phiên liền biết đó là các vị quan to trong triều đình nhà Nguyễn ở Huế. Không biết tại sao trong thời điểm chiến tranh ác liệt này, các cụ lại đến đây. Ông Phiên niềm nở chào hỏi các cụ, rồi nhẹ nhàng tìm hiểu lý do chuyến thăm.

Một vị quan thay mặt cả nhóm phát biểu: “Thời gian qua chúng tôi sống quá khổ sở ở quê nhà. Chúng tôi không muốn đến sống trong các vùng Pháp chiếm đóng, không muốn làm gì cho giặc. Nhưng sống ở quê cũng không yên vì Pháp hay càn quét đốt nhà, bắt người. Gần đây, chúng tôi nghe tiếng ông chủ tịch là người khoan dung, độ lượng, yêu nước thương dân nên rủ nhau đến đây nương náu vùng kháng chiến, nhờ ông che chở. Chúng tôi sẵn sàng làm việc gì mà ông giao phó”.

ong-phien-5.jpg
Nguyên Phó Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Trương Quang Hoài Nam thắp hương cho ông nội mình, Trương Quang Phiên. (Ảnh: Lâm Quang Huy)

Ông Phiên bày tỏ xúc động trước quyết tâm tham gia kháng chiến của các vị quan cũ, hứa sẽ báo cáo Chính phủ xin hướng giải quyết. Ông cũng hứa sắp xếp nơi ăn ở cho các cụ chu đáo và sẽ mời các cụ tham gia một số công việc phù hợp.

Trước đó, khi tản cư lên vùng miền núi, cơ quan văn hóa thông tin có mang theo nhiều tài liệu lưu trữ bằng chữ Hán và tiếng Pháp. Thế là ông Phiên giao cho các cụ việc phân loại tài liệu, đánh giá kỹ từng loại một. Các cụ phấn khởi với công việc vừa tầm này, nhất là các vị giỏi chữ nho. Các cụ không hạn chế mình vào công việc sách vở, còn tham gia trồng rau xanh, trồng ngô, trồng khoai như các cán bộ cơ quan tỉnh.

Cuộc sống vui vẻ trôi chảy được khoảng hai tuần thì các cụ bị bệnh sốt rét quật ngã. Ở chiến khu thầy thuốc rất hiếm, vậy mà ông Phiên vẫn cử một vị y sĩ giàu kinh nghiệm hàng ngày đến chăm lo cho các cụ. Hơn một tuần trôi qua, bệnh tình các cụ không có dấu hiệu gì lạc quan.

HY SINH GIA ĐÌNH, GIỮ UY TÍN CHO CÁCH MẠNG

ong-phien-6.jpg
Cầu tràn bắc qua sông Ba Lòng ở xã An toàn khu Ba Lòng. (Ảnh: Lâm Quang Huy)

Dịch giả, nhà nghiên cứu, nhà giáo Trương Quang Đệ, nguyên Trưởng khoa Ngoại ngữ Đại học Sư phạm Huế, người con trai thứ từng có thời gian ở chiến khu Ba Lòng với cha, nhớ về một đêm thao thức không ngủ được vì thấy cha lúi húi viết gì đó đến tận hai-ba giờ sáng. Ông Đệ ngồi dậy nhìn cha một lúc lâu. Ông Phiên thấy lạ nên ngừng viết và cho con trai mình đọc bức thư.

“Kính gửi ngài Nguyễn Hoài, cựu đốc học Quảng Trị. Thưa ngài. Trước hết tôi xin gửi đến ngài lời chúc sức khỏe chân thành nhất. Tôi mong ngài quan tâm giúp cho tôi một việc. Khoảng hơn một tháng trước đây, các cụ quan lại cũ của triều đình có tên sau đây lên chỗ chúng tôi gia nhập hàng ngũ kháng chiến: Thượng thư T.V.L., Tham tri T.Đ.K., Tham tri L.V.M., Tuần vũ Đ.T.H., Bố chánh N.K.B., Án sát H.H.Đ. Chúng tôi rất xúc động trước bầu nhiệt huyết của các cụ, hân hoan đón tiếp các cụ và đã cố gắng hết sức đảm bảo cho các cụ một cuộc sống không quá gian khổ.

ong-phien-7.jpg
Thung lũng Ba Lòng hôm nay. (Ảnh: Lâm Quang Huy)

Tuy nhiên, như ngài biết, chỗ rừng núi của chúng tôi không thích hợp với người già. Chỉ một thời gian ngắn các cụ bị bệnh sốt rét dày vò và ngày càng nguy kịch. Chúng tôi cố gắng hết sức nhưng chắc không có phương tiện chạy chữa hữu hiệu. Vì vậy, tôi muốn chuyển các cụ về bệnh viện tỉnh và mong được ngài ra tay giúp đỡ. Nếu ngài thuận lòng thì tôi cho người dùng thuyền chở các cụ theo sông Ba Lòng về bến đò cách thị xã một cây số về phía Tây. Ngài sẽ cho người đón họ từ bến đò về bệnh viện. Có điều tế nhị là các cụ tuy thuận cho tôi đưa về bệnh viện tỉnh nhưng không muốn giáp mặt người Pháp nào, lính tráng cũng như thầy thuốc. Tôi nghĩ là ngài cảm nhận được điều đó. Chúng tôi sẽ liên hệ với gia đình các cụ, tìm cách cho họ đến bệnh viện chăm sóc các cụ và lo liệu mọi khoản chi phí nếu cần. Sau khi các cụ đã hồi phục, xin ngài quan tâm sắp xếp cho họ và gia đình được sinh sống trong các vùng không có chiến sự, ngõ hầu tạo cho các cụ những ngày cuối đời yên bình, thanh thản…

Trương Quang Phiên, nguyên trợ giáo Trường tiểu học Vĩnh Linh…”

Theo nhà giáo Trương Quang Đệ, cha ông giải thích ông Nguyễn Hoài là Tỉnh trưởng Quảng Trị về phía Pháp. Ông vốn là người tốt, nhưng không hiểu sao lại theo giặc. Chắc phải có một lý do đặc biệt nào đó. Tôi bỗng dưng khóc nức nở không kìm nén được. Cha tôi phát hoảng hỏi sao vậy con, làm sao mà khóc. Tôi nghẹn ngào không nói được, mãi lúc sau mới vừa khóc sụt sịt vừa nói, biết cha giải quyết sự việc như thế này thì chị Nam Chi của con năm ngoái không phải chết.

ong-phien-8.jpg
Sông Ba Lòng đoạn qua xã An toàn khu Ba Lòng. (Ảnh: Lâm Quang Huy)

Chị Nam Chi bị thương hàn, ai cũng khuyên mẹ đưa chị vào bệnh viện tỉnh nhưng mẹ không dám làm vì trái với lý tưởng kháng chiến của cha. Cha buồn rầu im lặng một lúc rồi ôn tồn nói khẽ: "Con nghĩ không đúng đâu. Hai chuyện khác nhau hoàn toàn đó. Đúng là chị Nam Chi của con chết cho lý tưởng của cha như mẹ nói. Một thủ lĩnh kháng chiến như cha không thể cho con gái vào chữa trị ở bệnh viện do quân địch cai quản. Còn bây giờ, cha đưa các cụ này về bệnh viện tỉnh cũng do lý tưởng mà làm. Nếu để các cụ có mệnh hệ gì ở đây thì uy tín kháng chiến sẽ ra sao". Ba hôm sau, mọi việc diễn ra như ông Phiên dự kiến.

Một thủ lĩnh kháng chiến như cha không thể cho con gái vào chữa trị ở bệnh viện do quân địch cai quản. Còn bây giờ, cha đưa các cụ này về bệnh viện tỉnh cũng do lý tưởng mà làm. Nếu để các cụ có mệnh hệ gì ở đây thì uy tín kháng chiến sẽ ra sao.

Ông Trương Quang Phiên

Năm 1953, ông Trương Quang Phiên được cấp trên điều ra Liên khu IV rồi về Trung ương chuẩn bị tiếp quản Thủ đô vào năm 1954. Lúc bấy giờ, Chính phủ lập các ban, ngành, rất cần người đặc biệt tin cậy để tiếp quản Kho bạc Đông Dương và ông Trương Quang Phiên, người Quảng Trị được chọn phụ trách kho bạc này.

Ông Phiên mất năm 1989 tại Huế. Trước lúc mất, ông có nguyện vọng gia đình đưa ông về an nghỉ tại quê hương. Ngôi mộ của ông Phiên hôm nay vẫn nằm bình yên trong khu mộ gia đình ở làng Mai Xá.

ong-phien-9.jpg
Nghĩa trang liệt sĩ xã An toàn khu Ba Lòng. (Ảnh: Lâm Quang Huy)

Nhiều bạn bè, đồng nghiệp, con cháu, người thân của ông có dịp ghé thăm thường bảo rằng, có lẽ ông Trương Quang Phiên là vị Chủ tịch tỉnh duy nhất có ngôi mộ đơn sơ như thế.

Đóng góp của ông cho cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc và di sản của ông để lại cho đời thì có lẽ ai cũng thán phục. Các con và cháu của ông đều nối nghiệp cha ông mình trong sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, họ giữ những vị trí quan trọng từ địa phương đến Trung ương.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị Lê Ngọc Quang bày tỏ sự trân trọng và biết ơn sâu sắc đối với những cống hiến to lớn của đồng chí Trương Quang Phiên cho sự nghiệp cách mạng.

Đồng chí Trương Quang Phiên, nguyên Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Quảng Trị, đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, đưa cuộc cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Dù thời gian có trôi qua, những đóng góp ấy sẽ mãi được ghi nhớ, bởi đó cũng chính là sự chung sức cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện trọn vẹn ước nguyện và lời căn dặn thiết tha của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bắc-nam sum họp một nhà.

Có thể bạn quan tâm

Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc trọng dụng hiền tài

Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc trọng dụng hiền tài

Trọng dụng hiền tài là một trong những yếu tố mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng chú trọng, góp phần tạo nên sự đoàn kết và làm nên chiến thắng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Dưới lời kêu gọi của Bác, nhiều trí thức đang học tập ở nước ngoài, nhiều trí thức là quan lại cũ của triều Nguyễn đã tham gia giúp nước, giúp dân.

Những ngày Tháng Tám sôi sục ở Thủ đô Hà Nội. Cách mạng Tháng Tám mở ra một thời đại mới ở Việt Nam, thời đại nhân dân Việt Nam làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của chính mình. (Ánh: TTXVN)

Sức mạnh đoàn kết dân tộc đưa Việt Nam đến thắng lợi

Với Campuchia, thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ. Tinh thần độc lập, tự chủ của Việt Nam đã lan tỏa tới Campuchia, góp phần cổ vũ phong trào cách mạng và động viên lãnh đạo Campuchia trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc.

Những thành viên hoàng tộc đi theo Cách mạng

Những thành viên hoàng tộc đi theo Cách mạng

Sau khi vua Bảo Đại thoái vị, chính quyền về tay nhân dân, rất nhiều thành viên hoàng tộc đã đi theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham gia Cách mạng, sát cánh cùng đồng bào mình trong công cuộc giải phóng dân tộc. Nhiều người trong số đó đã trở thành Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nhiều người đã hy sinh…

Đại sứ Việt Nam tại Pakistan Phạm Anh Tuấn.

Biểu tượng của khát vọng tự do, tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường bất khuất của nhân dân Việt Nam

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dấu mốc lịch sử ý nghĩa này không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam mà còn trở thành biểu tượng của khát vọng tự do, tinh thần đoàn kết và ý chí kiên cường bất khuất của nhân dân Việt Nam.

Công trình nghiên cứu công phu của Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Hồng Tung về Cách mạng Tháng Tám

Công trình nghiên cứu công phu của Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Hồng Tung về Cách mạng Tháng Tám

Cuốn sách của Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Hồng Tung cung cấp những phân tích khoa học, sâu sắc, giúp bạn đọc có nhận thức đầy đủ hơn về đặc điểm, tính chất, ý nghĩa và bài học lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đặt trong hoàn cảnh lịch sử của dân tộc Việt Nam, tình hình của khu vực, bối cảnh của thế giới.

Ngày 19/8/1945, sau cuộc mít tinh tại Quảng trường Nhà hát Lớn, quần chúng nhân dân Thủ đô đã đánh chiếm Bắc Bộ phủ, cơ quan đầu não của chính quyền tay sai Pháp ở Bắc Bộ. (Nguồn: Tư liệu TTXVN)

Cách mạng Tháng Tám - Mốc son chói lọi trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một mốc son chói lọi trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Những bài học lịch sử đúc kết từ thắng lợi Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ngày nay.

Tình gian lao và say đắm

Tình gian lao và say đắm

Đó là chuyện tình yêu của những nhân vật lịch sử xứ Quảng, hòa chung vào tình bạn, tình đồng chí gian lao mà say đắm suốt cuộc kháng chiến trường kỳ cũng như gần suốt chiều dài thế kỷ XX...

Các khối quần chúng trong ngày Độc lập.

Tết Độc lập trong ký ức người Hà Nội

Những con người từng là nhân chứng của lịch sử, của ngày Tết độc lập năm ấy rồi sẽ trở thành thiên cổ. Nhưng những ký ức về mùa thu Tháng Tám, về ngày Lễ Tuyên ngôn độc lập sẽ mãi được giữ gìn, được lan tỏa bằng tình yêu của những con người sống trên mảnh đất Thủ đô nghìn năm văn hiến này.

Khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn ngày 25/8/1945. (Ảnh tư liệu)

Xứ ủy Nam Kỳ và những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám

Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám ở Sài Gòn và toàn Nam Bộ đã nổ ra kịp thời cùng hòa vào cuộc tấn công mạnh mẽ của quân ta trên khắp các mặt trận đã góp phần mang lại thắng lợi hoàn toàn của Cách mạng Tháng Tám 1945, mở ra kỷ nguyên mới của đất nước Việt Nam khi lần đầu tiên có tên trên bản đồ thế giới hiện đại.

Chính phủ của quốc dân đồng bào

Chính phủ của quốc dân đồng bào

Chính phủ lâm thời ra đời từ cuộc Tổng khởi nghĩa vang dội, mang lại quyền lợi nhân dân chưa từng được hưởng và đã thực hiện những nhiệm vụ cấp bách giữ vững nền độc lập, cũng như lâu dài kiến thiết quốc gia. Chính phủ lâm thời hợp lòng dân, được toàn dân ủng hộ, bảo vệ.

Nhân dân Hà Nội đón mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị được giới thiệu ứng cử Đại biểu Quốc hội. Hà Nội, ngày 5/1/1946. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh)

Tưng bừng Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên

Lời hiệu triệu của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam ngày 6/1/1951 trong dịp kỷ niệm ngày Tổng tuyển cử, đã tái hiện phần nào bầu không khí những ngày trọng đại đầu năm 1946.

Thời cơ cho hôm nay

Thời cơ cho hôm nay

Mùa thu nay khác rồi, câu thơ trong bài "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi lại ngân rung trong tôi những ngày Tháng Tám. Ấy là Tháng Tám của mùa thu xanh thắm, trời trong, mây nõn, như đợi chờ, như hẹn ước.

"Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng”

"Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng”

Sau 50 năm đất nước giành được độc lập và thống nhất trọn vẹn, chúng ta đã có thể khẳng định, thế hệ hôm nay, không chỉ kính trọng, ghi ơn mảnh trăng giữa rừng, mà còn tìm thấy từ những năm tháng gian khổ, hy sinh để có chiến thắng ấy nhiều bài học trong công cuộc dựng và giữ nước.

Xem văn nghệ thời thiếu khó

Xem văn nghệ thời thiếu khó

Đã từng có một thời, đi xem văn nghệ là sự kiện của cả làng, cả xóm. Giữa muôn vàn thiếu thốn của thời bao cấp, giữa khói lửa của chiến tranh, cải lương, xiếc, chiếu bóng… đã trở thành nguồn động viên tinh thần, khơi lên những niềm vui, khát vọng, như một mạch sống ngầm bền bỉ nuôi dưỡng tâm hồn con người vượt qua gian khó.

Giáo sư Phan Kim Nga trả lời phỏng vấn của phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Trung Quốc.

Ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám qua góc nhìn của học giả Trung Quốc

Nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công, bà Phan Kim Nga, Giáo sư, Tiến sĩ Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc đã chia sẻ với phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Trung Quốc về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, cũng như tầm ảnh hưởng của sự kiện này đối với khu vực và thế giới.

Đông đảo người dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập sáng 2/9/1945. (Ảnh tư liệu: TTXVN)

Đảng lãnh đạo dân tộc làm nên Cách mạng Tháng Tám và 80 năm xây dựng Đảng cầm quyền vững mạnh

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi vĩ đại của toàn thể dân tộc Việt Nam, do Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo. Đó là kết tinh sức mạnh của cả dân tộc, thực hiện mục tiêu căn bản mà Cương lĩnh đầu tiên (2/1930) của Đảng đề ra: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” “để đi tới xã hội cộng sản”(1).

Ông Hoàng Ngọc kể lại câu chuyện gặp Bác Hồ và những sự kiện lịch sử diễn ra tại Tân Trào cho thế hệ trẻ. (Ảnh: ĐỨC THẮNG)

Từ Cách mạng Tháng Tám đến kỷ nguyên vươn mình

Mùa Thu năm 1945, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính yêu, đồng bào ta từ Bắc chí Nam, triệu người như một, nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.