Nhà cách mạng – chiến sĩ Cộng sản quốc tế Đào Chính Nam (1908-1987) là một trong 20 người Việt Nam được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lựa chọn, giới thiệu vào học Trường Quân sự Hoàng Phố, Trung Quốc (1926-1927) và gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội năm 1929. Trong gần 50 hoạt động cách mạng ở cả trong và ngoài nước, trải qua nhiều cương vị công tác trong quân đội, ông luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chiến đấu và xây dựng của Quân đội nhân dân Việt Nam. 

Trong những ngày tháng Tám lịch sử, trong không khí cả nước hân hoan chào mừng kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9, chúng tôi đã đến thăm gia đình ông Đào Đức Thanh, con trai nhà lão thành cách mạng Đào Chính Nam – người có nhiều cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam.

Lần giở, giới thiệu với chúng tôi những giấy tờ, tài liệu, bài báo liên quan đến nhà lão thành cách mạng Đào Chính Nam, ông Đào Đức Thanh chia sẻ, những di vật này là tài sản quý giá đối với dòng họ nói chung cũng như với đại gia đình ông. Qua đó, các thế hệ con cháu sẽ luôn ghi nhớ, học tập noi gương người cha, người ông – một nhà cách mạng, người chiến sĩ cộng sản quốc tế, luôn gương mẫu, hy sinh cả cuộc đời vì lý tưởng cộng sản.

Vị tiền bối cách mạng của hai nước Việt-Trung

Nhà lão thành cách mạng Đào Chính Nam tên thật là Đào Ngọc Tuấn (Bí danh Đào Văn Cứu, Đào Bá Long, Đào Nhất Dân, Đức Minh…) sinh ngày 15/5/1908, quê ở trấn Vạn Xuân, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.

Được thừa hưởng truyền thống yêu nước của gia đình, dòng họ Đào, ông Đào Chính Nam sớm giác ngộ, tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1925, ông phụ trách đường dây liên lạc đưa các nhà cách mạng Việt Nam ra nước ngoài hoạt động cách mạng. Ông được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu trực tiếp giác ngộ cách mạng, phụ trách đường dây liên lạc đưa các nhà cách mạng Việt Nam ra nước ngoài hoạt động cách mạng.

Cuối năm 1926, ông Đào Chính Nam đã vận động một số thanh niên yêu nước ở quê hương Móng Cái đi hoạt động cách mạng. Năm 1927, sang Trung Quốc, ông được các nhà tiền bối của cách mạng Việt Nam giới thiệu vào học trường Quân sự Hoàng Phố, Trung Quốc, cùng thời với các đồng chí Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Lê Thiết Hùng, Phùng Chí Kiên, Nguyễn Sơn … Năm 1929, ông được đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Phùng Chí Kiên giới thiệu vào tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội (nay gọi là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên) – một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Vì tham gia sự kiện “Quảng Châu Công xã”, ông bị Quốc dân Đảng bắt giam 3 năm tù. Ra tù, ông tiếp tục hoạt động cách mạng tại Trung Quốc dưới sự chỉ đạo của ông Hồ Tùng Mậu.

Từ năm 1930 đến năm 1932, ông tham gia đội cảm tử quân của các trường đại học ở thành phố Thượng Hải, Trung Quốc. Sau đó, ông tham gia Quân đoàn thứ 19 của Hồng quân Trung Quốc để kháng Nhật với chức danh đội trưởng của Tư lệnh tướng Thái Đình Khải (Trung Quốc) với tên mới là Đào Bá Long.

Tháng 2/1932, ông bị quân Pháp bắt và đưa về Việt Nam, giam ở Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng và bị kết án 5 năm khổ sai. Tháng 3/1934, ông trốn tù bí mật sang Hương Cảng sau đó qua Quảng Đông (Trung Quốc) dự lớp tập huấn cho cán bộ chỉ huy quân sự do Đảng Cộng sản Trung Quốc tổ chức. Hoàn thành khóa học, ông tham gia Quân giải phóng và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Cuối năm 1939, ông chỉ huy một trận đánh ở Triều An và bị thương nặng, bị quân Nhật bắt làm khổ sai phục vụ quân đội Nhật và để giấu tung tích ông lấy tên là Đào Nhất Dân. Trong thời gian này, ông thường xuyên liên lạc và cung cấp nhiều thông tin có lợi cho cách mạng với đồng chí Phùng Chí Kiên (người lãnh đạo, chỉ huy quân sự đầu tiên của quân đội ta, hy sinh năm 1941).

Đầu năm 1943, Đào Chính Nam trốn thoát về Tân Tứ Quân (một đơn vị quân đội Trung Quốc, sau này sáp nhập với Bát Lộ Quân, tiền thân của Quân Giải phóng Trung Quốc) và được bố trí trong Ban Tác chiến - Bộ Tham mưu Khu, mang quân hàm “Đại hiệu” (ngang với quân hàm Đại tá).

Cuối năm 1944, ông cùng bạn học trường Quân sự Hoàng Phố nhận được lệnh ra thành lập Quân khu mới ở Quảng Đông, Trung Quốc và được cử làm Tư lệnh Quân khu và được phong hàm cấp Tướng. Nghe theo Lời kêu gọi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ông đã quyết định xin giải ngũ để tìm đường về nước tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp.

Tháng 11/1946 đến 1949, ông được đồng chí Hồ Tùng Mậu và các tướng Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn đề nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh điều vào Liên khu 4 giữ chức Liên khu phó Liên khu, kiêm Phân khu trưởng Phân khu Bình-Trị-Thiên. Đầu năm 1949, ông được cử làm Tư lệnh Liên khu Đông Bắc, rồi cuối năm đó được điều về làm phó Giám đốc trường Quân sự trung cao cấp ở Soi Mít, tỉnh Thái Nguyên (nay là Học viện Lục quân Đà Lạt), kiêm Cục phó Cục Quân huấn (Giám đốc là tướng Lê Thiết Hùng, Chính ủy là tướng Trần Tử Bình). Sau này, ông được điều làm Giám đốc trường Quân sự trung cao cấp. Từ 1960 đến 1968, ông công tác tại Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Có thể nói, ông Đào Chính Nam thuộc thế hệ tiền bối của cách mạng Việt Nam và cách mạng Trung Quốc. Ông cùng với các tướng Lê Thiết Hùng, Trần Tử Bình... có nhiều công lao trong việc xây dựng, đào tạo các thế hệ cán bộ quân sự của quân đội ta. Nhiều học trò của ông sau này trở thành những vị tướng nổi tiếng như Nam Long, Đồng Sỹ Nguyên, Đặng Quân Thụy, Khuất Duy Tiến...

Cuộc đời ông đã trải qua những năm tháng chiến đấu gian khổ, hi sinh phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, và xây dựng quân đội không ngừng lớn mạnh. Ông đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương kháng chiến hạng Nhất và nhiều phần thưởng cao quý khác...

Đào Chính Nam và chuyến hồi hương đặc biệt của 2000 Việt kiều ở Thượng Hải

Kể về những năm tháng hoạt động cách mạng tại Trung Quốc của ông Đào Chính Nam là phải nhắc đến sự đóng góp to lớn của ông trong việc vận động và tổ chức chuyến hồi hương của 2000 Việt kiều ở Thượng Hải năm 1946.

Ngày 15/8/1945, Trung Quốc và Nhật ký hiệp định đình chiến. Nghe tin Pháp đang tạo sức ép buộc 2000 Việt kiều ở Thượng Hải trả cho chính phủ bù nhìn Lê Văn Hoạch ở miền nam Việt Nam. Khi đó, ông Đào Chính Nam đang hoạt động tại Trung Quốc đã viết thư vạch trần âm mưu bắt đồng bào về Nam làm bia đỡ đạn.

Bà con vội mời ông lên Thượng Hải, tới nơi ông báo tin, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Ông vận động bà con hồi hương về miền bắc.

Tháng 6/1946, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử đại diện sang thương thảo với Chính phủ Thượng Hải và ông Đào Chính Nam cùng tham dự sự kiện này.

Tháng 7/1946, con tàu buôn mang tên Hải Xuyên đưa 2000 bà con hồi hương. Chỉ cần 10 ngày là đến Hải Phòng nhưng tàu phải vào các cảng dọc đường do sự cản trở của Pháp và Quốc dân Đảng. Sau một tháng dài ròng rã, tàu đã cập bến Đồ Sơn nhưng Pháp cho tàu chiến ra ngăn cản. Đại diện của ta hội ý rồi cho tàu vào sát chân núi thả neo, mặt khác điện cho Chính phủ ta để tìm hướng giải quyết. Sau cuộc điều đình kéo dài từ sáng đến 4 giờ chiều, tàu mới được cập cảng Hải Phòng. Sau đó, số Việt kiều được lên tàu về Hà Nội và được đón về trường Trưng Vương. Khi đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cử đặc phái viên Phan Tử Lăng ra đón gần 1000 lính khố xanh, khố đỏ, cảnh sát trong số hồi hương, bổ sung ngay cho các đơn vị Vệ quốc đoàn.

Nhà lão thành cách mạng Đào Chính Nam
Tên thật là: Đào Ngọc Tuấn (Bí danh Đào Văn Cứu,
Đào Bá Long, Đào Nhất Dân, Đức Minh…)
Sinh ngày: 15/5/1908
Quê quán: trấn Vạn Xuân, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.

Nhân dân các dân tộc tỉnh Hải Ninh vui mừng đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm tỉnh ngày 19 và 20/2/1960. (Nguồn ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh)

Nhân dân các dân tộc tỉnh Hải Ninh vui mừng đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm tỉnh ngày 19 và 20/2/1960. (Nguồn ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh)

Nhà lão thành cách mạng Đào Chính Nam và tấm Huy hiệu quý giá của Bác Hồ

Theo dòng câu chuyện trao đổi với chúng tôi, ông Đào Đức Thanh – con trai nhà lão thành cách mạng Đào Chính Nam có nhắc đến những kỷ vật mà cha ông để lại, trong đó có tấm Huy hiệu Bác Hồ - một kỷ vật vô giá hiện đang được trưng bày lưu giữ tại nhà riêng của gia đình ở thành phố Móng Cái, Quảng Ninh.

Ông kể, trong cuộc đời hoạt động cách mạng, cha ông có nhiều kỷ vật, trong đó có tấm Huy hiệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo cha ông kể lại, sáng 21/3/1953, một ngày rất đẹp trời, Bác Hồ đến thăm trường trường Quân sự trung cao cấp ở Soi Mít, tỉnh Thái Nguyên (nay là Học viện Lục quân Đà Lạt) và dự lễ bế giảng khóa huấn luyện bổ túc quân sự. Đây là khóa đào tạo các cán bộ trung cấp của Quân đội để phục vụ cho các chiến dịch sau này. Theo kế hoạch, một bộ phận do cha ông phụ trách cưỡi ngựa đi theo đường rừng đón Bác. Còn lại đồng chí Chính ủy cùng cán bộ các phòng ban và một số học viên ưu tú đứng dọc hai bên trước cổng trường để đón Bác; một số lãnh đạo, cán bộ khác thì phụ trách các học viên tập trung tại Hội trường.

Ngày 15/8/1945, Trung Quốc và Nhật ký hiệp định đình chiến. Nghe tin Pháp đang tạo sức ép buộc 2000 Việt kiều ở Thượng Hải trả cho chính phủ bù nhìn Lê Văn Hoạch ở miền nam Việt Nam. Khi đó, ông Đào Chính Nam đang hoạt động tại Trung Quốc đã viết thư vạch trần âm mưu bắt đồng bào về Nam làm bia đỡ đạn.

Điều bất ngờ, khi đón Bác về gần tới nơi đóng quân của nhà trường thì Người yêu cầu Giám đốc Đào Chính Nam dẫn Bác đi vòng đằng sau trường vì Người muốn kiểm tra khu vệ sinh, khu nhà bếp của bộ đội. Như vậy, ước muốn của nhà trường được đón tiếp vị lãnh tụ một cách trang trọng từ cổng trường đã không thực hiện được. Sau khi được Ban giám hiệu đưa đi thăm tất cả nơi ăn, chốn ở của cán bộ, giáo viên, học viên và chiến sĩ, Bác Hồ cùng Ban giám hiệu quay lại hội trường. Tại đây, thay mặt toàn thể cán bộ, giáo viên và học viên nhà trường, cha ông đã báo cáo với Hồ Chủ tịch và các thành viên Chính phủ về thành tích huấn luyện của khóa học.

Sau khi nghe Giám đốc nhà trường Đào Chính Nam, Bác Hồ khen ngợi nhà trường đã có công trong việc đào tạo học viên là cán bộ chỉ huy ở các đơn vị để chuẩn bị cho các chiến dịch… Bác Hồ biểu dương những việc nhà trường làm tốt và động viên mọi người tiếp tục phát huy, nhân rộng; còn với những việc chưa làm được thì Bác căn dặn phải cố gắng phấn đấu để lần sau Bác đến thăm sẽ được nghe báo cáo là hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Bác hỏi mọi người có mặt tại hội trường “Các cô chú có thực hiện được không?”. Cả hội trường đồng loạt đứng dậy nói to “Có ạ” rồi đồng thanh hô to “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm! Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!”

Ra hiệu cho mọi người ngồi xuống rồi Bác Hồ nói về việc tặng Huy hiệu của Người cho một số cá nhân xuất sắc nhất của nhà trường. Bác mời Giám đốc Đào Chính Nam và một học viên đạt điểm cao nhất của khóa học lên để Người trực tiếp gắn huy hiệu lên ngực áo, Sau đó, Bác nói “Bác muốn nghe các cô bộ đội nữ của nhà trường lên hát tặng Bác”. Nhà trường khi đó chỉ có 4 nữ chiến sĩ, trong đó có chiến sĩ Nguyễn Thị Trà – là vợ của ông Đào Chính Nam đã hát cho Bác nghe. Bác Hồ khen ngợi, bắt tay từng người và động viên các cô tập hát nhiều bài hơn nữa để thỉnh thoàng hát cho mọi người cùng nghe.

Suốt 80 năm cuộc đời với gần 20 năm là chiến sĩ cộng sản quốc tế và hơn 20 năm là cán bộ cấp cao trong quân đội, trải qua những năm tháng chiến đấu gian khổ, hi sinh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc và xây dựng quân đội không ngừng lớn mạnh. Ngoài tấm Huy hiệu Bác Hồ, ông Đào Chính Nam còn được Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quân đội ra quyết định công nhận là Cán bộ lão thành cách mạng; được trao tặng, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất và nhiều phần thưởng cao quý khác. Năm 2002, ông Đào Chính Nam được Nhà nước truy tặng Huân chương Độc lập hạng II.

Ngày xuất bản: 31/8/2025
Chỉ đạo nội dung: Hoàng Nhật - Hồng Vân
Nội dung: Khánh Lan - Minh Phương - Hữu Việt

Trình bày: ĐĂNG NGUYÊN