Độc đáo kỹ thuật nhuộm của người Ba Na

Dân tộc Ba Na ở Kon Tum từ lâu đã biết khai thác các sản vật thiên nhiên để tạo thuốc nhuộm mầu trên trang phục. Những sản vật thiên nhiên này được đồng bào phát hiện một cách tình cờ, trong khi phát nương làm rẫy, đi rừng. Các loại mủ cây dính vào người và tạo ra mầu sắc loang lổ trên chân, tay, áo, váy hay đào được các loại củ, rễ cây rừng hoặc hái được quả có mầu sắc, từ đó nảy ra ý tưởng tạo mầu nhuộm vải.
Phụ nữ Ba Na với nghề dệt truyền thống.
Phụ nữ Ba Na với nghề dệt truyền thống.

Người Ba Na cho rằng, đây là phát hiện rất quan trọng, có ý nghĩa như sự trao ân ban phúc của thần linh cho cộng đồng. Hoạt động này do phụ nữ đảm trách, vì vậy mà việc chế biến thuốc nhuộm và kỹ thuật nhuộm vải là bí quyết của riêng phụ nữ. Họ có đủ sự kiên nhẫn, khéo léo để tạo ra các sắc mầu, hoa văn độc đáo cho bộ trang phục truyền thống của dân tộc mình.

Mầu sắc chủ đạo trên trang phục truyền thống người Ba Na là mầu đen, có trang trí họa tiết mầu. Cũng như nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên, người Ba Na nhuộm sợi sau đó mới dệt. Kỹ thuật này được giới nghiên cứu nghề dệt thủ công đặt tên là ikat. Ðây là kỹ thuật nhuộm bao sợi. Khác batik là nhuộm bao vải; với ikat không phải dùng tấm vải mà là sợi được bao trước khi nhuộm. Người ta dùng xơ vỏ cây hoặc sợi ni-lông buộc bao chung quanh bó sợi ở những đoạn khác nhau rồi đem nhuộm. Các phần sợi được bao sẽ không bắt mầu. Quy trình bao - nhuộm lặp lại nhiều lần để tạo những sợi đa sắc. Sợi này được dùng làm sợi ngang hoặc sợi dọc để dệt nên tấm vải ikat. Hoa văn ikat có vẻ đẹp rất riêng nhờ các đường biên mờ. Chính vì vậy, mà sự thể hiện hoa văn trên khung dệt đòi hỏi người thợ phải có óc tưởng tượng và độ chính xác rất cao.

Ðể tạo mầu đen, người Ba Na sử dụng lá cây gơ gũl mọc trong rừng trộn với bùn dưới ruộng, ngâm khoảng một tuần sẽ có mầu đen tuyền, ngâm 1 ngày 1 đêm sẽ có mầu xám tro. Mầu đen được nhuộm bằng lá gơ gũl thường là mầu nền của mỗi tấm vải, biểu hiện cho đất đai, cho sự nảy mầm từ mặt đất, độ che phủ của cây rừng mà suốt cả cuộc đời con người phải gắn chặt với nó, kể cả khi trút hơi thở cuối cùng.

Ðể tạo mầu vàng nhạt, họ dùng củ kơ trong giã ra lấy nước để ngâm sợi, mầu vàng đậm được ngâm từ nước của củ nghệ giã nát. Mầu vàng biểu hiện cho ánh sáng mặt trời, sự kết hợp hài hòa giữa con người và tự nhiên. Mầu đỏ cũng là một loại mầu bà con tự chế tác, họ lấy cây tơ ngo giã nát hòa với nước sẽ cho ra một mầu đỏ đậm. Ðây là mầu biểu hiện của lửa, của máu, tượng trưng cho sức sống, sự vươn lên, niềm đam mê, tình yêu và khát vọng. Với mầu trắng, đây là mầu mộc vốn có của sợi chỉ, không nhuộm bởi bất cứ mầu nào khác. Ngày nay, người Ba Na cũng sáng tạo ra nhiều hoa văn họa tiết mới với nhiều mầu sắc phong phú hơn, họ sử dụng thêm mầu xanh lá cây từ cây lá nếp, mầu tím từ cây lá cẩm, mầu cam từ cây cà ri. Trước khi nhuộm sợi, người dệt sẽ nấu một nồi nước sôi rồi bỏ hạt aren (hạt cây thầu dầu) và một nắm gạo nhỏ vào, sau đó bỏ sợi vào luộc kỹ; thường luộc khoảng một ngày một đêm cho đến khi sợi mềm mới đạt tiêu chuẩn. Sau đó họ vớt ra để nguội tự nhiên.

Công đoạn tiếp theo, người dệt lấy những vòng sợi trắng cho vào ngâm dung dịch mầu, thời gian ngâm tùy thuộc vào độ đậm hay nhạt của sợi đúng ý của người nhuộm. Khi đạt thời gian cần thiết, người nhuộm sẽ vớt ra và mang sợi đi giặt, nếu mầu chưa đạt họ sẽ nhuộm tiếp, còn nếu mầu đã đạt như ý muốn họ sẽ mang sợi lên phơi cho khô. Sau đó, đưa sợi trộn với bột của gạo nếp than hấp cho sợi cứng, không bị xù lông rồi vớt sợi ra phơi khô. Khi sợi đã khô, tiếp tục đưa sợi vào dụng cụ quấn sợi để quấn sợi lại thành những cuộn sợi tròn. Khi muốn dệt váy hay dệt khố, tấm choàng, chăn đắp, tấm địu... thì người phụ nữ chạn sợi lên khung giăng sợi và khung cửi để dệt.

Ngày nay, do sự tiện lợi của các sợi chỉ công nghiệp với nhiều mầu sắc, bà con không còn làm các mầu truyền thống như trước đây nữa, họ sử dụng các loại sợi chỉ đã có sẵn trên thị trường mua được ở chợ về để dệt. Tuy nhiên, những sản phẩm thủ công truyền thống của người Ba Na vẫn luôn được trân trọng, thường được sử dụng trong dịp Tết hay những ngày lễ quan trọng. Vì thế mà kỹ thuật nhuộm độc đáo của người Ba Na vẫn được bảo tồn và phát triển.

Có thể bạn quan tâm

Thế hệ trẻ dân tộc Brâu với điệu chiêng Bơm pa rar.

Tiếng chiêng Bơm pa rar nơi ngã ba biên giới

tiếng chiêng Bơm pa rar (có nghĩa là mừng hội) của dân tộc Brâu tại làng Đắk Mế (xã Bờ Y, tỉnh Quảng Ngãi) ngân vang, mang theo khát vọng về mùa màng bội thu, cuộc sống thanh bình và tinh thần đoàn kết cộng đồng bền chặt.

Thiếu nữ Chu Ru với sản phẩm gốm truyền thống.

Độc đáo nghề gốm của người Chu Ru

Khi nhiều buôn làng ở Tây Nguyên từng bao đời du canh, du cư thì người Chu Ru làng Krăng Gọ, xã Quảng Lập, tỉnh Lâm Đồng chỉ ở dưới chân núi T'rôm Ụ. Loại đất đặc biệt, nguồn nước trong lành và những bàn tay tài hoa ở làng quê này đã góp phần tạo ra nghề thủ công truyền thống quý giá-nghề gốm.

Ngày hội trên cao nguyên Di Linh.

Độc đáo nghi lễ của người Cơ Ho Srê

Trên cao nguyên Di Linh (Lâm Đồng) điệp trùng đồi núi, người Cơ Ho Srê từ bao đời gắn bó với cây lúa nước. “Srê” nghĩa là ruộng, nên họ tự gọi mình là “cau Cơ Ho Srê” - người Cơ Ho làm ruộng nước. So với nhiều tộc người khác, người Cơ Ho Srê sớm biết dẫn nước từ suối về ruộng, khai mở nền văn minh lúa nước giữa lòng Tây Nguyên.

Già Siu Klah (giữa) và các thành viên Câu lạc bộ cồng chiêng làng Dek. (Ảnh ĐỒNG LAI)

Người kể chuyện cồng chiêng

Giữa những ngọn đồi trập trùng của xã Ia Hrú, tỉnh Gia Lai, có người đàn ông lặng lẽ nhưng bền bỉ gìn giữ một phần hồn cốt của văn hóa Tây Nguyên. Ông là già làng Siu Klah, người Jrai, sống tại làng Dek.

Ném còn thường được tổ chức vào dịp Tết Nguyên đán, lễ hội Xuân.

Biểu tượng văn hóa dân tộc Tày ở Tây Nguyên

Một trong những giá trị tiêu biểu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Tày tại xã biên giới Ia Đal, tỉnh Quảng Ngãi là trò chơi ném còn, (tiếng Tày gọi là "tung còn"), trò chơi dân gian truyền thống có từ lâu đời, phổ biến trong các lễ hội Xuân của người Tày, thể hiện ước vọng sinh sôi nảy nở, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

Thiếu nữ Cơ Ho với gùi hoa truyền thống.

Gùi hoa - Biểu tượng văn hóa người Cơ Ho

“Đung đưa, đung đưa/Chiếc gùi đung đưa…”, âm điệu ca khúc H'Zen lên rẫy của nhạc sĩ Nguyễn Cường, khiến người nghe liên tưởng đến cô gái miền sơn cước duyên dáng cùng nhịp gùi mỗi sớm mai lên rẫy.

Chủ lễ thực hiện nghi thức tưới rượu cần lên cây Blang và các vật cúng tế trong Lễ Tăm Blang m’prang bon của người Mnông Pré, Nam Nung, Lâm Đồng.

Lễ Tăm Blang m’prang bon của người Mnông

Theo ấn định thời gian, cứ từ 3 đến 5 năm, đồng bào Mnông Pré ở xã Nam Nung (Lâm Đồng) lại cùng nhau tổ chức Lễ Tăm Blang m’prang bon (Lễ rào bon, trồng cây Blang) để cảm tạ thần Blang đã bảo vệ bon làng, đồng thời cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt bội thu.

Bếp lửa trong không gian nhà dài người Mạ ở Lâm Đồng.

Bếp lửa trong đời sống người Mạ

Giữa đại ngàn nam Tây Nguyên vẫn tồn tại ngôi nhà dài truyền thống của người Mạ, tại khu vực Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Bà Ka Dít đã gần 70 mùa rẫy là chủ nhân cũng không nhớ nổi ngôi nhà khai sinh từ lúc nào.

Phục dựng nghi thức Lễ gọi hồn lúa của người M’nông Gar tại Liên hoan Văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk lần thứ III năm 2024.

Lễ gọi hồn lúa của người M’nông Gar

Cũng như hầu hết các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, người Mnông Gar ở tỉnh Đắk Lắk tin rằng, trong hạt lúa có linh hồn, khi thần lúa ở lại với gia đình thì mùa màng bội thu, nếu vi phạm các điều kiêng kỵ thì thần lúa sẽ bay đi, làm cho lúa xấu, bị sâu bọ, mất mùa…

Đội nghệ nhân dân tộc Hrê, thôn Vi Pờ Ê, xã Kon Plông tham gia biểu diễn tại một sự kiện văn hóa.

Say đắm điệu Ta lêu trên đỉnh đèo Vi Ô Lắc

Trên miền cao nguyên Kon Plông hùng vĩ, điệu Ta lêu của người Hrê ngân vang, hòa quyện vào không gian bao la của núi rừng Trường Sơn Tây. Giai điệu ấy ghi dấu ấn về một tộc người với văn hóa độc đáo, trở thành minh chứng sống động cho sự giao thoa giữa thiên nhiên và con người, giữa truyền thống và hiện đại.

Ngôi nhà sàn cổ 140 tuổi của "Vua săn voi" Y Thu Knul ở Bản Đôn, xã Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

Độc đáo nhà sàn cổ của "Vua voi"

Ngôi nhà sàn cổ của “Vua voi” Y Thu Knul (1828 -1938), người được mệnh danh là ông tổ của nghề săn và thuần dưỡng voi rừng nằm tại Bản Đôn, xã biên giới Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk. Đây là một điểm tham quan không thể bỏ qua đối với du khách khi tới Buôn Đôn huyền thoại với nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng.

Hấp dẫn ẩm thực của người Cơ Ho dưới chân núi Lang Biang.

Hương vị núi rừng dưới chân núi Lang Biang

Chúng tôi đến vùng đất dưới chân núi Lang Biang, dạo chơi trên các buôn làng Đăng Gia, Bon Đưng, Bnơh… trước thuộc huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng; giờ là các tổ dân phố thuộc phường Lang Biang-Đà Lạt và may mắn được hòa vào không gian Hội thi ẩm thực và rượu cần Lang Biang.

Những mẻ bánh tro mới ra lò của đồng bào dân tộc Nùng tại Tây Nguyên.

Dẻo thơm bánh tro

Bánh tro là món ăn truyền thống được đồng bào dân tộc Nùng ở thôn Đăk Xuân, xã Đăk Ui, tỉnh Quảng Ngãi lưu giữ và truyền lại từ đời này sang đời khác. Không cầu kỳ về hình thức, cũng không có nhân như nhiều loại bánh nếp khác, nhưng bánh tro lại hấp dẫn bởi hương vị độc đáo, cách chế biến kỳ công và nét văn hóa ẩm thực rất riêng

Nghệ nhân người Chu Ru truyền dạy cách thổi kèn bầu cho lớp trẻ.

Kèn bầu của người Chu Ru

Cùng với các nhạc cụ như trống, đồng la, r’tông, k’wao… người Chu Ru ở Lâm Đồng còn có kèn bầu (rơkel) với điệu thức khoan thai, tỉ tê như chuyển tải nỗi lòng của người chơi, hay chất chứa khát vọng của buôn làng hòa vào bản giao hưởng giữa đại ngàn.

Nghệ nhân Ama Hloan ở buôn Akô Dhông, phường Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk giới thiệu nhạc cụ Đinh Năm với du khách.

Đinh Năm - nhạc cụ độc đáo của người Ê Đê

Trong các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, người Ê Đê có kho tàng âm nhạc phát triển, giàu bản sắc, đa dạng với nhiều hình thức diễn xướng. Đặc biệt, nhạc cụ của người Ê Đê rất phong phú như cồng, chiêng, trống, sáo vỗ, khèn, đàn…; trong đó, Đinh Năm là một loại nhạc cụ độc đáo, được nhiều người yêu thích.

Nghi lễ đón khách của bon chủ nhà mở đầu cho Lễ mừng mùa của đồng bào M'nông ở xã Quảng Trực.

Lễ mừng mùa của người M'nông ở Quảng Trực

Sau khi kết thúc mùa vụ, người M'nông ở xã Quảng Trực (tỉnh Lâm Đồng) tổ chức Lễ mừng mùa để tạ ơn trời đất, các vị thần linh đã giúp cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu. Đây cũng là dịp để người M'nông sum họp, gắn kết và lan tỏa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình.

Đồng bào dân tộc Ha Lăng phục dựng lễ Pơ Jrao.

Pơ Jrao - Lễ cúng mừng lúa thóc đầy kho

Giữa đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ, nơi chân dãy Sạc Ly sừng sững, người Ha Lăng ở xã Rờ Kơi, tỉnh Quảng Ngãi mãi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc mình.

Di tích lịch sử Sở Trà Bu Prăng.

Độc đáo di tích lịch sử Sở Trà Bu Prăng

Di tích lịch sử Sở Trà Bu Prăng, nằm trong khuôn viên của Trung đoàn 726, xã Quảng Trực (tỉnh Lâm Đồng), là một ngôi nhà cổ, được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp. Theo các chuyên gia, nhà nghiên cứu: Trước kia, nơi đây là đồn điền Sở Trà Bu Prăng do người Pháp xây dựng.

Cây Kơ nia trong khuôn viên bảo tàng tỉnh Gia Lai (cũ).

Đi tìm Bóng cây Kơ nia

Cây Kơ nia (có nơi gọi là cây cầy, cây cốc) có tên khoa học là Irvingia malayana, có nguồn gốc từ châu Phi và Đông Nam Á.

Món ăn ếch nấu lồ ô thường được người Giẻ Triêng nấu trên bếp lửa.

Đặc sản truyền thống của người Giẻ Triêng

Mang đậm hương vị núi rừng, món ếch nấu lồ ô là một trong những nét ẩm thực truyền thống độc đáo của đồng bào Giẻ Triêng tại xã Dục Nông, tỉnh Quảng Ngãi mới. Món ăn này còn thể hiện lối sống gắn bó với thiên nhiên và sự sáng tạo trong chế biến.

Sưu tập Đàn đá Đắk Sơn đang được trưng bày, lưu giữ, bảo vệ, bảo quản tốt theo quy trình, quy định tại Bảo tàng tỉnh Đắk Nông.

Đàn đá Đắk Sơn - Bảo vật mang giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa

Đàn đá Đắk Sơn là hiện vật gốc có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, mang tính độc bản, độc đáo điển hình. Với niên đại xác thực, được chế tác tại chỗ và có nguồn gốc bản địa, đàn đá không chỉ sở hữu giá trị lịch sử và văn hóa sâu sắc mà còn là một sưu tập nhạc cụ tiêu biểu và cổ xưa nhất.

Phụ nữ Xơ Đăng chuẩn bị nguyên liệu để chế biến món Păng Chôh.

Gùi măng trên vai, hương rừng trong bếp

Giữa những cánh rừng bạt ngàn của xã Đăk Ui (huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum), nơi người Xơ Đăng sinh sống bao đời, có một món ăn mộc mạc nhưng đầy sức hút, không chỉ níu giữ hương vị núi rừng mà còn gói trọn cả một phần ký ức, nếp sống và tâm hồn bao thế hệ. Người Xơ Đăng gọi nó là “Păng Chôh”, có nghĩa là măng chua.

Người phụ nữ Ê Đê bên khung dệt vải thổ cẩm.

Nghệ thuật trang trí trên thổ cẩm của người Ê Đê

Hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đều có nghề dệt thổ cẩm, nhưng nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Ê Đê có nét độc đáo và riêng biệt, chứa đựng những giá trị nghệ thuật, lịch sử, văn hóa sâu sắc.