Bản hiến pháp của biển và đại dương

Công ước của LHQ về Luật Biển (UNCLOS) chính thức được ký kết ngày 10/12/1982. Được ví như bản hiến pháp của biển và đại dương, UNCLOS năm 1982 được đánh giá là một văn kiện pháp lý quốc tế có giá trị phổ quát, giúp các quốc gia thiết lập trật tự pháp lý toàn diện, công bằng, hòa bình trên biển.
0:00 / 0:00
0:00
Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ ba thông qua Công ước UNCLOS. Ảnh: UNITED NATION
Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ ba thông qua Công ước UNCLOS. Ảnh: UNITED NATION

Dấu mốc quan trọng của luật biển quốc tế

Một số quốc gia ven biển luôn có xu hướng mở rộng ra hướng biển. Xu hướng này lại mâu thuẫn với mong muốn duy trì quyền tự do hoạt động trên biển của các cường quốc hàng hải. Chính hai xu hướng này đã thúc đẩy sự ra đời của các nguyên tắc, chế định, quy định pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ và điều hòa lợi ích giữa các quốc gia.

Năm 1958, LHQ triệu tập Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ nhất tại Geneve (Thụy Sĩ) với 86 nước tham dự. Hội nghị đã thông qua được bốn Công ước quốc tế về Luật Biển, gồm Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải; Công ước về đánh cá và bảo tồn tài nguyên sinh vật; Công ước về thềm lục địa; Công ước về biển cả, tạo cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh các hoạt động liên quan đến biển và đại dương. Tuy nhiên, các nước tham gia hội nghị vẫn chưa thống nhất được một số nội dung quan trọng như chiều rộng lãnh hải, quyền đi qua eo biển quốc tế, giới hạn vùng đánh cá, ranh giới ngoài của thềm lục địa… Năm 1960, LHQ triệu tập Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ hai để giải quyết những tồn tại ở Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ nhất, song không đạt được kết quả mong muốn.

Năm 1973, LHQ triệu tập Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ ba nhằm thảo luận và nỗ lực thông qua một công ước mới về Luật Biển. Sau 5 năm trù bị (1967-1972) và qua chín năm thương lượng (1973-1982), trải qua 11 vòng đàm phán, ngày 30/4/1982, Hội nghị của LHQ về Luật Biển lần thứ ba đã thông qua được một công ước mới, với tỷ lệ 130 phiếu thuận, bốn phiếu chống, 17 phiếu trắng và hai nước không tham gia bỏ phiếu. Ngày 10/12/1982, tại vịnh Montego (Jamaica), 117 đoàn đại biểu các quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã chính thức ký công ước. Ngày 16/11/1994, một năm sau khi có đủ 60 quốc gia thành viên phê chuẩn, UNCLOS năm 1982 đã chính thức có hiệu lực.

Sự ra đời của UNCLOS năm 1982 đánh dấu sự kiện pháp lý quan trọng trong tiến trình phát triển của luật pháp quốc tế, chấm dứt một thời gian dài các mâu thuẫn, tranh cãi và căng thẳng, thậm chí hỗn loạn trên các đại dương và vùng biển trên thế giới. Kể từ khi UNCLOS ra đời, các quy định của luật biển quốc tế không chỉ bao gồm UNCLOS, mà còn xoay quanh UNCLOS.

GS Carl Thayer, thuộc Trường đại học New South Wales (Australia) cho rằng: Điểm đặc trưng duy nhất chỉ có ở UNCLOS, đó là công ước này đã thiết lập một cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc. Nếu hai bên xảy ra tranh chấp, họ có thể viện dẫn UNCLOS để giải quyết tranh chấp. Quan trọng nhất, UNCLOS là một “thỏa thuận trọn gói”. Có nghĩa là khi đã ký vào công ước, các nước không thể lựa chọn những phần muốn tham gia. Các thành viên phải tuân thủ tất cả các quy định trong công ước.

Đến nay, đã có 168 quốc gia tham gia công ước, trong đó 164 quốc gia là thành viên của LHQ. UNCLOS năm 1982 đã thể hiện vai trò như một bản hiến pháp của đại dương trong việc điều chỉnh quy chế pháp lý các vùng biển cũng như bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các quốc gia trong khai thác và sử dụng biển, đáp ứng sự kỳ vọng của cộng đồng quốc tế về việc thiết lập một trật tự pháp lý mới trên biển, đồng thời dung hòa được quyền và lợi ích giữa các quốc gia.

Công ước cũng đưa ra những quy định chung về bảo tồn tài nguyên, phát triển tài nguyên một cách bền vững và điều chỉnh tất cả những hoạt động trên biển, bao gồm nghiên cứu khoa học biển, đặt cáp dưới đáy biển... Trong 40 năm qua, ngay cả những nước chưa phê duyệt UNCLOS năm 1982 cũng luôn viện dẫn công ước này khi giải quyết tranh chấp trên biển. Cùng với đó, công ước cũng là hiến chương, điều lệ cho việc thành lập ra tất cả những tổ chức quốc tế lớn về biển như Tòa án quốc tế về Luật Biển, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa.

Nỗ lực của Việt Nam đối với UNCLOS

Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển, đảo cùng xu thế phát triển của luật biển quốc tế, Việt Nam tích cực tham gia xây dựng UNCLOS từ sớm. Sau khi UNCLOS được thông qua, Việt Nam là một trong những bên đầu tiên ký và sớm tiến hành thủ tục phê chuẩn. Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam chính thức phê chuẩn UNCLOS, Việt Nam trở thành thành viên thứ 63 của công ước. Ngày 14/7/1994, Việt Nam đã nộp văn kiện phê chuẩn cho Tổng Thư ký LHQ. Do vậy, ngày 16/11/1994, khi UNCLOS bắt đầu có hiệu lực cũng đồng thời là ngày văn kiện này có hiệu lực đối với Việt Nam.

Tiếp đó, Việt Nam đã gia nhập một số điều ước quốc tế để thực thi UNCLOS như Hiệp định năm 1994 về thực hiện phần XI của UNCLOS, Hiệp định thực thi các quy định của UNCLOS về bảo tồn và quản lý đàn cá lưỡng cư và di cư xa; gia nhập một số văn kiện pháp lý có liên quan khai thác và sử dụng biển trong khuôn khổ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp LHQ (FAO), Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO)… Trong quá trình đó, Việt Nam kiên trì, kiên quyết yêu cầu và kêu gọi các quốc gia tuân thủ các nghĩa vụ của công ước, qua đó đóng góp vào bảo vệ trật tự pháp lý trên biển, xây dựng Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình và mang lại thịnh vượng cho tất cả các quốc gia trong khu vực.

Đặc biệt, năm 2021, Việt Nam cùng 11 nước thành viên UNCLOS đã khởi xướng Nhóm bạn bè UNCLOS tại LHQ, tạo diễn đàn trao đổi cởi mở, thẳng thắn, rộng rãi về các vấn đề liên quan cùng quan tâm giữa các quốc gia. Hiện, nhóm có 115 nước thành viên, gồm đại diện cho tất cả các khu vực địa lý, trong đó có năm nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ.

Bằng việc phê chuẩn UNCLOS, Việt Nam thể hiện rõ ý chí thực hiện các quyền trong các giới hạn cho phép của UNCLOS, có tính đến quyền tự do của các quốc gia khác; nỗ lực triển khai các biện pháp thực chất, phù hợp chủ trương, chính sách và tiềm lực, thực thi UNCLOS một cách thiện chí, theo đúng nguyên tắc được đặt ra theo công ước.

Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan các vùng biển chồng lấn, Việt Nam đã vận dụng các nguyên tắc theo UNCLOS để giải quyết các tranh chấp về việc xác định phạm vi các vùng biển để giải quyết, đàm phán, phân định, hoạch định với các quốc gia láng giềng, ký kết được một số điều ước quan trọng về phân định biển như Hiệp định về phân định ranh giới trên biển trong vịnh Thái Lan với Thái Lan năm 1997; Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc năm 2000 và Hiệp định về phân định ranh giới thềm lục địa với Indonesia năm 2003. Trên cơ sở các quy định của công ước, Việt Nam đang thúc đẩy đàm phán giải quyết các vấn đề còn tồn đọng với các nước liên quan.

Bên cạnh đó, thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo quy định tại Điều 76 của UNCLOS, Việt Nam đã xây dựng và đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của LHQ báo cáo xác định phạm vi thềm lục địa mở rộng của Việt Nam ở khu vực phía bắc Biển Đông; phối hợp với Malaysia đệ trình báo cáo chung về ranh giới ngoài thềm lục địa khu vực phía nam theo đúng thời hạn quy định của LHQ.

Quá trình đàm phán, ký kết các văn kiện phân định biển với các nước láng giềng cho thấy Việt Nam đã vận dụng một cách sáng tạo các quy định của UNCLOS, góp phần củng cố và làm phong phú thêm luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế về phân định biển, trong đó thể hiện sự đề cao nguyên tắc công bằng nhằm tìm ra giải pháp hợp lý cho các tranh chấp biển, thúc đẩy tôn trọng và tin cậy lẫn nhau, vì mục tiêu ổn định và phát triển chung.

Trong đấu tranh chống những hành động xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trên Biển Đông, Việt Nam luôn khẳng định rõ quan điểm kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông; nhấn mạnh việc tuân thủ nghiêm túc các quy định của luật pháp quốc tế, UNCLOS cũng như các thỏa thuận song phương, đa phương về các vấn đề trên biển; bày tỏ mong muốn cùng các bên liên quan giải quyết hòa bình những khác biệt còn lại trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS.