Thời kỳ Chiến quốc
Trước trận Sekigahara, Nhật Bản đã trải qua một thời kỳ chiến loạn kéo dài từ giữa thế kỷ 15 tới cuối thế kỷ 16. Đây được gọi là thời kỳ Chiến quốc. Trong giai đoạn này, Thiên Hoàng vẫn đứng đầu nền quân chủ Nhật Bản nhưng chỉ trên danh nghĩa, quyền lực thực tế nằm trong tay các gia tộc Mạc Phủ, đứng đầu bởi một Shogun (Tướng quân).
Theo Visit Gifu, nước Nhật trong giai đoạn này bị chia cắt, các lãnh chúa quyền lực đều có lãnh địa riêng, ra sức bành trướng, tạo thế lực, xây dựng quân đội riêng. Họ liên tiếp tiến hành nhiều cuộc chiến tranh để giành vị trí Shogun, qua đó đẩy nước Nhật vào thời kỳ hỗn loạn, khiến kinh tế - xã hội - văn hóa không có điều kiện phát triển.
Mọi thứ chỉ dừng lại vào khoảng nửa sau thế kỷ 16 với sự xuất hiện của ba nhân vật kiệt xuất gồm Oda Nobunaga, Toyotomi Hideyoshi và Tokugawa Ieyasu. Họ đều là những lãnh chúa hùng mạnh, đều từng có giai đoạn nắm quyền cao nhất ở Nhật Bản. Mỗi người đều đã góp công lớn trong việc chấm dứt thời kỳ Chiến quốc.
Trong ba người, Oda Nobunaga đặt nền móng đầu tiên cho sự thống nhất khi lật đổ Mạc phủ Ashikaga và thành công kiểm soát vùng trung tâm Nhật Bản. Năm 1582, Nobunaga qua đời, Toyotomi Hideyoshi nắm quyền và củng cố hơn nữa sự thống nhất. Nhật Bản trong giai đoạn này đã đủ mạnh để tiến hành hai cuộc xâm lược bán đảo Triều Tiên.
Khi Hideyoshi qua đời năm 1598, lãnh chúa hùng mạnh cuối cùng là Tokugawa Ieyasu đã từng bước thâu tóm được quyền lực. Ông kết minh với các thế lực khác, tiến hành chiến tranh với nhà Hideyoshi, lúc này được lãnh đạo bởi gia thần trung thành Ishida Mitsunari. Lịch sử gọi lực lượng của Ieyasu là Liên quân miền đông, còn Hideyoshi là quân miền tây. “Trận chiến phân chia thiên hạ” giữa họ diễn ra vào ngày 21/10/1600 ở vùng Sekigahara (tỉnh Gifu, miền trung Nhật Bản).
Trước trận Sekigahara, một chuỗi các hành động quân sự đã được cả hai phe triển khai ở miền trung Nhật Bản. Cả hai đều đã có những lực lượng mạnh bị cầm chân ở những chiến trường khác. Điều đó đã dẫn tới khác biệt đáng kể về binh lực. Bình minh ngày 21/10, quân miền đông mới có khoảng 75.000 lính trong khi miền tây đã có tới 120.000 lính. Lực lượng của Ishida Mitsunari cũng sở hữu lợi thế địa hình khi được phòng ngự ở những vùng đồi núi phía tây, trong khi quân của Tokugawa Ieyasu sẽ tấn công từ vùng đồng bằng thấp phía đông.
Bất chấp chênh lệch quân số, Mitsunari vẫn có những khó khăn. Ông vốn là một chính trị gia chứ không thông thạo chiến trận như đối thủ Ieyasu. So với các lãnh chúa đồng cấp, Mitsunari không nhận được sự thừa nhận tương tự Ieyasu. Ông không tạo được mối liên kết chặt chẽ trong nội bộ quân miền tây. Lực lượng này được tổ chức lỏng lẻo, thiếu đoàn kết. Họ cũng bị mua chuộc dễ dàng bởi Ieyasu, người có nhiều ảnh hưởng và vốn quá lão luyện sau nhiều năm chinh chiến. Theo giáo sư, nhà sử học Kawai Atsushi (Trường đại học Waseda), chỉ có khoảng một nửa quân số miền tây thật sự tham dự trận đánh. Điều đó đã trực tiếp làm thay đổi kết quả cuộc chiến.
Khoảng 8 giờ sáng (có giả thiết là 10 giờ sáng), trận đánh bắt đầu khi sương mù tan đi, đủ để hai bên nhìn thấy nhau. Quân miền tây chiếm lợi thế trong giai đoạn đầu. Nhưng Mitsunari đã sớm gặp khó khăn khi mệnh lệnh của ông không được các cánh quân khác triển khai đầy đủ. Khoảng 11 giờ, Mitsunari ra hiệu lệnh tổng tấn công cho toàn quân miền tây. Nhưng một số chỉ huy của ông và lực lượng dưới quyền họ đã từ chối giao chiến hoặc tệ hơn là quay đầu về phe địch.
Kẻ phản bội nổi bật từ phe miền tây là Kobayakawa Hideaki. Người đứng đầu gia tộc Kobayakawa nắm trong tay tới 15.000 quân và đang giữ điểm cao Matsuo. Việc Hideaki trở mặt giữa trận ngay lập tức khiến cánh phải của phe miền tây chịu tổn thất nặng nề. Sự phản bội của gia tộc Kobayakawa cũng châm ngòi cho nhiều quý tộc khác quay mũi giáo, đồng thời tạo ra cuộc đào ngũ tập thể trong nội bộ quân miền tây.
Các nhà sử học sau này đã tranh luận rất nhiều về sự phản bội của Kobayakawa Hideaki. Tuy chưa thể xác định rõ thời điểm Hideaki nghiêng về phía Ieyasu, tất cả đều tin rằng lựa chọn của ông đã quyết định cục diện trận đánh, tạo lợi thế toàn diện cho quân miền đông đi tới thắng lợi.
Đến khoảng 12 giờ trưa, trận đánh dần kết thúc với thất bại nặng nề của phe miền tây. Quân miền đông chỉ mất khoảng 8.000 người trong khi phe miền tây chết hơn 35.000 quân. Lực lượng miền tây cũng gần như tan rã với hơn 23.000 kẻ đào ngũ cùng hàng chục nghìn quân khác gia nhập phe miền đông sau trận.
Ảnh hưởng sâu sắc tới lịch sử Nhật Bản
Chiến thắng tại Sekigahara đã mở đường cho Tokugawa Ieyasu hoàn thành thống nhất Nhật Bản sau đó vài năm. Lãnh chúa này đã thực hiện những nước đi chính trị khôn ngoan khi không thanh trừng quá nhiều kẻ thù. Thủ lĩnh Mitsunari và một số lãnh chúa là vài nhân vật hiếm hoi bị hành quyết. Tuy nhiên, Tokugawa đã tiến hành chia lại lãnh thổ và chức vị của hơn 80 gia tộc liên quan tới cuộc chiến. Các đồng minh miền đông của Tokugawa hưởng lợi hơn cả khi quyền lực của họ được mở rộng đáng kể.
Năm 1603, Tokugawa Ieyasu nhận tước hiệu Chinh di Đại tướng quân, chính thức mở ra thời kỳ Mạc phủ Tokugawa (Mạc phủ Edo). Ông sau đó nhường ngôi cho con trai và dành nốt những năm cuối đời để củng cố nền thống trị của gia tộc mình. Rút kinh nghiệm từ những hỗn loạn của thời kỳ Chiến quốc mà mình đã trải qua, Tokugawa Ieyasu đã cải tổ đáng kể bộ máy lãnh đạo, chuyển kinh đô về Edo (ngày nay là Tokyo). Ông tập trung quyền lực về Mạc phủ, khống chế các lãnh chúa bằng chính sách con tin ở kinh đô, đồng thời thực hiện phân tầng xã hội, trao quyền lực tuyệt đối vào tay tầng lớp Samurai.
Những nỗ lực ấy là cơ sở để Mạc phủ Tokugawa tạo ra một thời kỳ hòa bình kéo dài hơn 250 năm. Sự ổn định ấy đã thúc đẩy kinh tế, văn hóa phát triển, dẫn đến việc ra đời các đô thị mới cùng tầng lớp thương gia Nhật Bản. Sự phát triển đồng độ cả về kinh tế và văn hóa là nền tảng xã hội cho thành công sau này của Duy Tân Minh Trị vào năm 1868.
Bản thân trận Sekigahara cũng trở thành một cột mốc lịch sử, văn hóa lớn lao. Chiến địa năm xưa giờ là một thị trấn nhỏ Sekigahara với hơn 7.000 dân. Tại đây, người Nhật đã xây dựng một công viên lớn, kết hợp với các công trình kỷ niệm, thu hút không ít khách du lịch cả trong và ngoài nước.
Thị trấn Sekigahara cũng nổi tiếng nhờ trận đánh năm xưa. Thị trấn của Nhật Bản đã kết nghĩa với quận Gettysburg (Mỹ) và thành phố Waterloo (Bỉ) với tư cách những địa danh từng ghi dấu các trận đánh lừng danh trong lịch sử.
Đã có vô số tác phẩm văn học, phim ảnh, kịch, truyện tranh... lấy cảm hứng trực tiếp hoặc gián tiếp từ trận Sekigahara. Với nhiều người, lịch sử phong kiến Nhật Bản được chia thành hai thời kỳ: trước và sau trận Sekigahara. Văn hóa dân gian cũng coi Sekigahara là “ranh giới” phân biệt hai miền đông - tây Nhật Bản, với những khác biệt rõ ràng từ văn hóa, lối sống tới thực phẩm, thời tiết.