Say đắm điệu Ta lêu trên đỉnh đèo Vi Ô Lắc

Trên miền cao nguyên Kon Plông hùng vĩ, điệu Ta lêu của người Hrê ngân vang, hòa quyện vào không gian bao la của núi rừng Trường Sơn Tây. Giai điệu ấy ghi dấu ấn về một tộc người với văn hóa độc đáo, trở thành minh chứng sống động cho sự giao thoa giữa thiên nhiên và con người, giữa truyền thống và hiện đại.

Đội nghệ nhân dân tộc Hrê, thôn Vi Pờ Ê, xã Kon Plông tham gia biểu diễn tại một sự kiện văn hóa.
Đội nghệ nhân dân tộc Hrê, thôn Vi Pờ Ê, xã Kon Plông tham gia biểu diễn tại một sự kiện văn hóa.

Đèo Vi Ô Lắc (xã Kon Plông) nằm giữa điểm nối đông và tây tỉnh Quảng Ngãi, là ranh giới tự nhiên chia đôi hai vùng khí hậu Trường Sơn Đông và Trường Sơn Tây. Đèo như một dải lụa uốn lượn giữa mây trời, với những khúc cua tay áo, những dốc sâu hút mắt và thung lũng trải dài bất tận. Mỗi bước chân qua Vi Ô Lắc là một cung bậc cảm xúc, hồi hộp, thích thú, choáng ngợp trước vẻ đẹp của thiên nhiên hoang sơ. Nơi đây, cộng đồng người Hrê đã định cư từ bao đời. Họ chọn đỉnh đèo làm nơi dừng chân không chỉ vì cảnh quan hữu tình, mà còn bởi nơi đây thỏa mãn khát vọng du ca, một thuộc tính văn hóa đặc trưng của tộc người này. Họ yêu núi Vang Y Phu, suối Nong, thác Tru, thác Rỗi, thác Ly... Những địa danh không chỉ là cảnh vật mà là ký ức, là tình yêu, là cội nguồn văn hóa. Chính tình yêu sâu sắc với thiên nhiên đã níu giữ bước chân người Hrê trên đỉnh đèo cheo leo, nơi họ có thể vừa khám phá cái mới, vừa vọng về miền đất tổ nơi dòng sông Re uốn lượn dưới chân núi.

Trên đỉnh đèo Vi Ô Lắc, những ngôi làng nhỏ của người Hrê nép mình trong lòng núi như những tổ chim bám chặt vào đá, cỏ và cây rừng. Trong tiếng gió vi vu qua tán lá, trong mùi khói bếp lam chiều, điệu Ta lêu ngân lên, không ồn ào, không khoa trương, nhưng làm rung động mọi tâm hồn khi một lần được nghe.

Ta lêu, theo cách gọi của người Hrê, không chỉ là một điệu dân ca, mà là tất cả những gì sâu xa nhất trong tâm hồn họ. Nó là lời ru của mẹ, là tiếng thở của rừng, là dòng suối róc rách, là tiếng chó sủa xa xa trong đêm, là bông lúa cong mình bên bờ ruộng, là đọt chuối non trắng nõn… Trong những căn nhà sàn đậm đà bản sắc Hrê, Ta lêu không chỉ là âm nhạc, mà là một phần đời sống. Trong một khung cảnh đậm chất núi rừng, khói bếp, rượu cần, tiếng cười pha lẫn âm thanh đàn brook réo rắt, một cô gái ngân nga điệu Ta lêu. Câu hát mộc mạc mà nặng lòng đất trời:

“(Lều lều lêu lều ố lêu), anh ơi lúa chín đỏ (Ố ố êu) báo tin được mùa (ều)...”.

Không dừng lại ở tính nghệ thuật, Ta lêu chính là phương tiện truyền tải thông điệp yêu thương, tình người, tình đất. Mỗi lời ca như một tấm gương phản chiếu đời sống lao động, sinh hoạt, tâm tình của người Hrê giữa rừng núi Kon Plông.

Trên cao nguyên Kon Plông, người Hrê đã và đang góp một tiếng nói quan trọng vào bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Những bản làng nhỏ nơi họ sinh sống là không gian của đàn brook, tiếng đàn chinh kla ngân vang trong lễ hội, tiếng đàn rơ oang đầy tự sự trong đám cưới và những làn điệu dân ca bay lên từ rẫy lúa, rẫy mì. Không chỉ là nghệ thuật trình diễn, những âm thanh ấy là linh hồn của cộng đồng, là phương tiện giáo dục truyền thống, là sợi dây kết nối giữa các thế hệ. Trong ngôi nhà sàn ấm cúng, bên ché rượu cần thơm nồng, người già kể chuyện xưa, người trẻ học hát, học đàn. Họ không chỉ sống, mà còn gìn giữ, trao truyền bản sắc văn hóa của mình một cách đầy tự hào.

Những nỗ lực gìn giữ văn hóa truyền thống của người Hrê trên đỉnh đèo Vi Ô Lắc không chỉ thể hiện trong sinh hoạt cộng đồng, mà còn được chính quyền địa phương và các tổ chức văn hóa chú trọng bảo tồn. Đội nghệ nhân dân tộc Hrê ở thôn Vi Pờ Ê là một minh chứng điển hình. Họ không chỉ tham gia biểu diễn tại các sự kiện văn hóa, mà còn truyền dạy cho thế hệ trẻ những làn điệu dân ca, tiếng chiêng, cách làm nhạc cụ truyền thống, góp phần làm sống lại những giá trị tưởng chừng đang mai một.

Trong dòng chảy hội nhập, những điệu Ta lêu vẫn ngân vang giữa đại ngàn, như lời nhắn nhủ về cội nguồn, về bản sắc, về sự gắn bó bền chặt giữa con người và thiên nhiên. Người Hrê trên đỉnh đèo Vi Ô Lắc không đơn thuần là những cư dân miền núi, mà là những người nghệ sĩ của đại ngàn, sống chan hòa, yêu thiên nhiên, gìn giữ văn hóa bằng cả trái tim.

Có thể bạn quan tâm

Thiếu nữ Chu Ru với sản phẩm gốm truyền thống.

Độc đáo nghề gốm của người Chu Ru

Khi nhiều buôn làng ở Tây Nguyên từng bao đời du canh, du cư thì người Chu Ru làng Krăng Gọ, xã Quảng Lập, tỉnh Lâm Đồng chỉ ở dưới chân núi T'rôm Ụ. Loại đất đặc biệt, nguồn nước trong lành và những bàn tay tài hoa ở làng quê này đã góp phần tạo ra nghề thủ công truyền thống quý giá-nghề gốm.

Ngày hội trên cao nguyên Di Linh.

Độc đáo nghi lễ của người Cơ Ho Srê

Trên cao nguyên Di Linh (Lâm Đồng) điệp trùng đồi núi, người Cơ Ho Srê từ bao đời gắn bó với cây lúa nước. “Srê” nghĩa là ruộng, nên họ tự gọi mình là “cau Cơ Ho Srê” - người Cơ Ho làm ruộng nước. So với nhiều tộc người khác, người Cơ Ho Srê sớm biết dẫn nước từ suối về ruộng, khai mở nền văn minh lúa nước giữa lòng Tây Nguyên.

Già Siu Klah (giữa) và các thành viên Câu lạc bộ cồng chiêng làng Dek. (Ảnh ĐỒNG LAI)

Người kể chuyện cồng chiêng

Giữa những ngọn đồi trập trùng của xã Ia Hrú, tỉnh Gia Lai, có người đàn ông lặng lẽ nhưng bền bỉ gìn giữ một phần hồn cốt của văn hóa Tây Nguyên. Ông là già làng Siu Klah, người Jrai, sống tại làng Dek.

Ném còn thường được tổ chức vào dịp Tết Nguyên đán, lễ hội Xuân.

Biểu tượng văn hóa dân tộc Tày ở Tây Nguyên

Một trong những giá trị tiêu biểu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Tày tại xã biên giới Ia Đal, tỉnh Quảng Ngãi là trò chơi ném còn, (tiếng Tày gọi là "tung còn"), trò chơi dân gian truyền thống có từ lâu đời, phổ biến trong các lễ hội Xuân của người Tày, thể hiện ước vọng sinh sôi nảy nở, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

Thiếu nữ Cơ Ho với gùi hoa truyền thống.

Gùi hoa - Biểu tượng văn hóa người Cơ Ho

“Đung đưa, đung đưa/Chiếc gùi đung đưa…”, âm điệu ca khúc H'Zen lên rẫy của nhạc sĩ Nguyễn Cường, khiến người nghe liên tưởng đến cô gái miền sơn cước duyên dáng cùng nhịp gùi mỗi sớm mai lên rẫy.

Chủ lễ thực hiện nghi thức tưới rượu cần lên cây Blang và các vật cúng tế trong Lễ Tăm Blang m’prang bon của người Mnông Pré, Nam Nung, Lâm Đồng.

Lễ Tăm Blang m’prang bon của người Mnông

Theo ấn định thời gian, cứ từ 3 đến 5 năm, đồng bào Mnông Pré ở xã Nam Nung (Lâm Đồng) lại cùng nhau tổ chức Lễ Tăm Blang m’prang bon (Lễ rào bon, trồng cây Blang) để cảm tạ thần Blang đã bảo vệ bon làng, đồng thời cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt bội thu.

Bếp lửa trong không gian nhà dài người Mạ ở Lâm Đồng.

Bếp lửa trong đời sống người Mạ

Giữa đại ngàn nam Tây Nguyên vẫn tồn tại ngôi nhà dài truyền thống của người Mạ, tại khu vực Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Bà Ka Dít đã gần 70 mùa rẫy là chủ nhân cũng không nhớ nổi ngôi nhà khai sinh từ lúc nào.

Phục dựng nghi thức Lễ gọi hồn lúa của người M’nông Gar tại Liên hoan Văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk lần thứ III năm 2024.

Lễ gọi hồn lúa của người M’nông Gar

Cũng như hầu hết các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, người Mnông Gar ở tỉnh Đắk Lắk tin rằng, trong hạt lúa có linh hồn, khi thần lúa ở lại với gia đình thì mùa màng bội thu, nếu vi phạm các điều kiêng kỵ thì thần lúa sẽ bay đi, làm cho lúa xấu, bị sâu bọ, mất mùa…

Ngôi nhà sàn cổ 140 tuổi của "Vua săn voi" Y Thu Knul ở Bản Đôn, xã Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

Độc đáo nhà sàn cổ của "Vua voi"

Ngôi nhà sàn cổ của “Vua voi” Y Thu Knul (1828 -1938), người được mệnh danh là ông tổ của nghề săn và thuần dưỡng voi rừng nằm tại Bản Đôn, xã biên giới Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk. Đây là một điểm tham quan không thể bỏ qua đối với du khách khi tới Buôn Đôn huyền thoại với nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng.

Hấp dẫn ẩm thực của người Cơ Ho dưới chân núi Lang Biang.

Hương vị núi rừng dưới chân núi Lang Biang

Chúng tôi đến vùng đất dưới chân núi Lang Biang, dạo chơi trên các buôn làng Đăng Gia, Bon Đưng, Bnơh… trước thuộc huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng; giờ là các tổ dân phố thuộc phường Lang Biang-Đà Lạt và may mắn được hòa vào không gian Hội thi ẩm thực và rượu cần Lang Biang.

Những mẻ bánh tro mới ra lò của đồng bào dân tộc Nùng tại Tây Nguyên.

Dẻo thơm bánh tro

Bánh tro là món ăn truyền thống được đồng bào dân tộc Nùng ở thôn Đăk Xuân, xã Đăk Ui, tỉnh Quảng Ngãi lưu giữ và truyền lại từ đời này sang đời khác. Không cầu kỳ về hình thức, cũng không có nhân như nhiều loại bánh nếp khác, nhưng bánh tro lại hấp dẫn bởi hương vị độc đáo, cách chế biến kỳ công và nét văn hóa ẩm thực rất riêng

Nghệ nhân người Chu Ru truyền dạy cách thổi kèn bầu cho lớp trẻ.

Kèn bầu của người Chu Ru

Cùng với các nhạc cụ như trống, đồng la, r’tông, k’wao… người Chu Ru ở Lâm Đồng còn có kèn bầu (rơkel) với điệu thức khoan thai, tỉ tê như chuyển tải nỗi lòng của người chơi, hay chất chứa khát vọng của buôn làng hòa vào bản giao hưởng giữa đại ngàn.

Nghệ nhân Ama Hloan ở buôn Akô Dhông, phường Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk giới thiệu nhạc cụ Đinh Năm với du khách.

Đinh Năm - nhạc cụ độc đáo của người Ê Đê

Trong các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, người Ê Đê có kho tàng âm nhạc phát triển, giàu bản sắc, đa dạng với nhiều hình thức diễn xướng. Đặc biệt, nhạc cụ của người Ê Đê rất phong phú như cồng, chiêng, trống, sáo vỗ, khèn, đàn…; trong đó, Đinh Năm là một loại nhạc cụ độc đáo, được nhiều người yêu thích.

Nghi lễ đón khách của bon chủ nhà mở đầu cho Lễ mừng mùa của đồng bào M'nông ở xã Quảng Trực.

Lễ mừng mùa của người M'nông ở Quảng Trực

Sau khi kết thúc mùa vụ, người M'nông ở xã Quảng Trực (tỉnh Lâm Đồng) tổ chức Lễ mừng mùa để tạ ơn trời đất, các vị thần linh đã giúp cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu. Đây cũng là dịp để người M'nông sum họp, gắn kết và lan tỏa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình.

Đồng bào dân tộc Ha Lăng phục dựng lễ Pơ Jrao.

Pơ Jrao - Lễ cúng mừng lúa thóc đầy kho

Giữa đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ, nơi chân dãy Sạc Ly sừng sững, người Ha Lăng ở xã Rờ Kơi, tỉnh Quảng Ngãi mãi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc mình.

Di tích lịch sử Sở Trà Bu Prăng.

Độc đáo di tích lịch sử Sở Trà Bu Prăng

Di tích lịch sử Sở Trà Bu Prăng, nằm trong khuôn viên của Trung đoàn 726, xã Quảng Trực (tỉnh Lâm Đồng), là một ngôi nhà cổ, được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp. Theo các chuyên gia, nhà nghiên cứu: Trước kia, nơi đây là đồn điền Sở Trà Bu Prăng do người Pháp xây dựng.

Cây Kơ nia trong khuôn viên bảo tàng tỉnh Gia Lai (cũ).

Đi tìm Bóng cây Kơ nia

Cây Kơ nia (có nơi gọi là cây cầy, cây cốc) có tên khoa học là Irvingia malayana, có nguồn gốc từ châu Phi và Đông Nam Á.

Món ăn ếch nấu lồ ô thường được người Giẻ Triêng nấu trên bếp lửa.

Đặc sản truyền thống của người Giẻ Triêng

Mang đậm hương vị núi rừng, món ếch nấu lồ ô là một trong những nét ẩm thực truyền thống độc đáo của đồng bào Giẻ Triêng tại xã Dục Nông, tỉnh Quảng Ngãi mới. Món ăn này còn thể hiện lối sống gắn bó với thiên nhiên và sự sáng tạo trong chế biến.

Sưu tập Đàn đá Đắk Sơn đang được trưng bày, lưu giữ, bảo vệ, bảo quản tốt theo quy trình, quy định tại Bảo tàng tỉnh Đắk Nông.

Đàn đá Đắk Sơn - Bảo vật mang giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa

Đàn đá Đắk Sơn là hiện vật gốc có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, mang tính độc bản, độc đáo điển hình. Với niên đại xác thực, được chế tác tại chỗ và có nguồn gốc bản địa, đàn đá không chỉ sở hữu giá trị lịch sử và văn hóa sâu sắc mà còn là một sưu tập nhạc cụ tiêu biểu và cổ xưa nhất.

Phụ nữ Xơ Đăng chuẩn bị nguyên liệu để chế biến món Păng Chôh.

Gùi măng trên vai, hương rừng trong bếp

Giữa những cánh rừng bạt ngàn của xã Đăk Ui (huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum), nơi người Xơ Đăng sinh sống bao đời, có một món ăn mộc mạc nhưng đầy sức hút, không chỉ níu giữ hương vị núi rừng mà còn gói trọn cả một phần ký ức, nếp sống và tâm hồn bao thế hệ. Người Xơ Đăng gọi nó là “Păng Chôh”, có nghĩa là măng chua.

Người phụ nữ Ê Đê bên khung dệt vải thổ cẩm.

Nghệ thuật trang trí trên thổ cẩm của người Ê Đê

Hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đều có nghề dệt thổ cẩm, nhưng nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Ê Đê có nét độc đáo và riêng biệt, chứa đựng những giá trị nghệ thuật, lịch sử, văn hóa sâu sắc.

Nghi thức trong lễ báo hiếu của dân tộc Mnông ở huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng.

Nét đẹp lễ báo hiếu của người Mnông

Lễ báo hiếu là dịp để người Mnông thể hiện lòng tri ân sâu sắc, sự biết ơn đối với công lao sinh dưỡng, giáo dục của đấng sinh thành. Đây cũng là dịp gắn kết tình thân giữa các thành viên trong gia đình, những người đồng tộc và củng cố mối quan hệ trong cộng đồng người Mnông.