Như những dòng sông

Chị dắt chúng tôi đến cột mốc 241 (Tân Châu - An Giang). Ðó là ranh giới duy nhất chưa bị con nước xóa nhòa ở nơi sông Tiền đang vào mùa nước lớn. Trong cái nắng gắt gay vùng biên giới, đá và nền xi-măng hắt ra cái nóng bỏng rát. Bóng các chị thoăn thoắt di chuyển, người quét, người lau, người nhổ cỏ… Tít trên đỉnh cột cờ chót vót, đôi lá cờ phần phật bay trong gió.

Các chị thuộc nhóm phụ nữ tự quản vùng biên bên cột mốc biên giới.
Các chị thuộc nhóm phụ nữ tự quản vùng biên bên cột mốc biên giới.

…”Tổ chúng tôi có mười lăm chị em. Tất cả đều buôn bán nhỏ và ở nhà nội trợ. Ðược sự vận động của các chú bộ đội biên phòng, tôi đứng ra kêu gọi chị em tham gia Tổ Phụ nữ tự quản vùng biên. Cứ khi nào rảnh thì “alô” cho nhau, hẹn tập trung ở khu vực cột mốc làm vệ sinh, rồi nghe tuyên truyền luật biên giới, tâm sự chuyện con cái, làm ăn”, - chị Trần Thị Ngọc Minh vừa nhổ cỏ, vừa rỉ rả. Chị Huỳnh Thị Cẩm Vân kéo tôi ngồi xuống, gần gũi như đã thân quen: - Cô biết không, tui tham gia từ năm 2013, nhà tui nghèo lắm, tui đi mần thuê cho người ta nên không có thời gian nhiều. Lần đó, tui tham gia thử cho biết, thấy mấy chú bộ đội nói hay quá. Tự nhiên tui cũng ý thức được việc bảo vệ cột mốc biên giới là rất quan trọng. Nào ngờ, tham gia cùng chị em nên biết được bao nhiêu luật về dạy con mình, nói với chồng mình. Rồi khi ốm đau, các chị em đến thăm. Khi thì tụ tập lại hùn tiền nấu ăn, vui lắm. Vậy nên sau này, tui đi mần thuê, giao trước với chủ, khi có tuần tra, vệ sinh cột mốc là phải cho tui nghỉ để tham gia.

Phụ nữ giúp nhau phát triển, phụ nữ phối hợp với biên phòng bảo vệ chủ quyền… Ðó là những câu chúng tôi được nghe nhiều nhất dưới gốc hoa sứ sau khi các chị dừng tay uống nước. Những người phụ nữ trung niên, da mặt rám sạm vì gió nắng biên thùy. Những người phụ nữ mà cái chữ chỉ vừa đủ để đọc và viết nguệch ngoạc. Những người phụ nữ hằng ngày đang phải nai lưng kiếm miếng cơm, manh áo cho chồng, cho con. Vậy mà đằng sau những khó nhọc và vất vả ấy, họ vẫn vui cười.

Mùa nước nổi là mùa thử thách nhất đối với người lính biên phòng ở vùng sông nước biên giới Tây Nam này. Nhưng, đó cũng là thời khắc đẹp nhất của “những đứa con của Mê Công” khi đổ vào biên giới Việt Nam. Sông Tiền bàn giao chúng tôi cho sóng nước sông Hậu khi mũi chiếc tắc ráng chạm vào địa phận Thị trấn Long Bình, huyện An Phú, tỉnh An Giang. Ðó cũng là nơi đóng quân của Ðồn Biên phòng cửa khẩu Long Bình. Bên dòng Hậu Giang hiền hòa, các anh kể cho chúng tôi nghe rất nhiều câu chuyện huyền thoại về một làng Chăm. Không chần chừ, chúng tôi tìm đến làng. Trưa đứng bóng, những đứa trẻ tụ tập trong một lớp học kinh Koran, dạy chúng là một cô giáo ngoài hai mươi tuổi, mắt to, sâu và giọng nói trong vắt như dòng nước ngoài búng Bình Thiên. Khi phát hiện có người lạ, lũ trẻ nhốn nháo, cô giáo đỏ lựng mặt rồi cho các em ra về. Cô khẽ kéo chiếc khăn xuống cằm, để lộ ra một khuôn mặt đẹp, nước da bánh mật mịn màng, đôi mắt hun hút sâu thẳm như lòng sông. Cô tên là Asi Giah, nữ đảng viên duy nhất ở xóm Chăm này. Ngoài việc dạy chữ Chăm cho con em trong xóm, Asi Giah còn tham gia công tác chính quyền tại địa phương. Sau này, do sức khỏe không cho phép nên cô chỉ tham gia Tổ Phụ nữ biên giới tự quản vùng biên, cột mốc. Theo lời Asi Giah, phụ nữ ở biên giới chịu nhiều thiệt thòi. Phần do xuất phát từ những phong tục, điều luật của dân tộc như phụ nữ không được tham dự các buổi cầu kinh trong thánh đường, hay phụ nữ phải luôn mặc kín, khăn che ngang mặt… đặc biệt, phần đông phụ nữ Chăm ít được đi học đến nơi đến chốn nên họ có phần rụt rè và hiểu biết hạn chế. Thấy được những thiệt thòi của chị em nên Asi Giah tham gia Tổ Phụ nữ để phối hợp chống buôn lậu, buôn bán phụ nữ. Cô cũng chủ động dịch các loại sách kinh từ tiếng Chăm ra tiếng Việt và dịch ngược lại từ tiếng Việt qua tiếng Chăm các điều luật, chính sách của Nhà nước, đặc biệt những quy định về quyền lợi, trách nhiệm của phụ nữ ở vùng biên để chị em hiểu biết, vững vàng hơn khi tham gia buôn bán ở khu vực biên giới.

Bộ đội cùng Ðoàn thanh niên và các chị phụ nữ đang chung sức chăm nom khu tưởng niệm.

Chợ biên giới Long Bình nằm dọc theo mép sông Hậu đoạn chảy qua An Giang, cách đồn biên phòng độ vài trăm mét. Trời ngả về chiều, chợ dần thưa người qua lại. Phó Ðồn trưởng, Trung tá Lại Xuân Trường vừa thực hiện nhiệm vụ tuần tra chợ vừa làm hướng dẫn viên cho đoàn khách phương xa còn đang bỡ ngỡ. Anh dừng lại chỗ gian hàng nhỏ của cô gái trên dưới hai mươi, hỏi han chuyện bán hàng, và gửi lại lời động viên thân mật trước khi dời đi: “Cố gắng nhé!”. Phải đến tối, khi cùng ngồi uống trà gần vọng gác, gió sông Hậu thổi vi vút trong màn đêm, chúng tôi cùng hướng mặt ra sông, khi giọng anh hòa vào tiếng ghe tàu trên sóng chúng tôi mới được biết: Cô bé hồi chiều tên là Vân. Năm 2010, Vân bị lừa bán sang Cam-pu-chia khi mới mười lăm tuổi. Em bị ép làm gái mại dâm rồi bị bắt. Bộ đội Biên phòng đã phối hợp cùng Hội Phụ nữ xã làm thủ tục đưa em về nước. Rồi hỗ trợ vốn cho em buôn bán, làm ăn lương thiện. “Các anh biết không, đây là địa bàn có tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS cao nhất tỉnh, nạn buôn bán người, mại dâm và ma túy cũng nhiều không kém, đặc biệt ở khu vực chợ. Vậy nên, nếu không có Tổ Phụ nữ tự quản, không có các chị em giám sát tiếp thì công việc sẽ gặp nhiều khó khăn. Mà bộ đội cũng nghèo, chả giúp lại được là bao. Chỉ mỗi năm vào dịp Tết thì tặng được chút quà. Các chị em có nhiều cách làm hay lắm, từ món quà của biên phòng, các chị vận động thêm nguồn xã hội hóa, thực hiện mô hình “bữa cơm thân thiện” đối với người già neo đơn. Trên địa bàn thị trấn có 17 cụ, cứ luân phiên tuần này các chị nấu cơm rồi dọn mâm ăn chung với cụ này, tuần sau tới nhà cụ khác. Nhờ vậy mà các cụ thêm phấn chấn, được an ủi lúc tuổi già. Phụ nữ đúng là những bông hoa cho cuộc đời”, anh Trường chia sẻ.

Rời sông Hậu, chúng tôi lênh đênh trên tắc ráng dọc theo biên giới hướng về phía bờ tây sông Châu Ðốc tìm đến dòng kênh Vĩnh Tế. Ðây là con kênh đào lớn nhất trong lịch sử Việt Nam do Tổng trấn Nguyễn Văn Thoại chỉ huy đào và sau này được đặt theo tên một người vợ của ông. Xuôi thuyền trên dòng kênh, tôi nhận ra sự đồng điệu ngẫu nhiên giữa những dòng sông, dòng kênh với tấm lòng của những người phụ nữ. Tâm tưởng ấy lớn dần và vững chắc hơn khi tôi đặt chân đến Vĩnh Gia - vùng biên giới đầu tiên trong tỉnh cho ra đời mô hình Tổ Phụ nữ tự quản đường biên, cột mốc. Cũng phải kể lại, Vĩnh Gia xưa kia là một vùng hoang hóa, dân cư thưa thớt do đất phèn và nhiễm mặn. Theo lời Ðại tá Trịnh Ngọc Sơn, nguyên Chủ nhiệm Chính trị - Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng An Giang, Vĩnh Gia là nơi đầu tiên anh nhận nhiệm vụ công tác sau khi ra trường. Khoảng hơn ba mươi năm trước, nơi đây vô cùng khó khăn do thiếu nguồn nước ngọt. Các cô gái địa phương hầu hết da xám xịt, đen nhẻm, tóc cháy khô, bàn tay, bàn chân cô nào cũng dính mầu vàng gỉ của đất phèn. Vậy mà ai cũng bám đất. Trong cái khó ló cái khôn, người ta bắt đầu dẫn nước từ kênh Vĩnh Tế vào đồng ruộng để thau rửa phèn rồi canh tác. Từ một vụ, sang hai vụ rồi lại đắp đê bao làm ba vụ. Ngày nay hầu hết diện tích đất nông nghiệp nằm trong vùng đê bao đều canh tác ba vụ lúa nên đời sống nhân dân khấm khá lên nhiều.

Tổ Phụ nữ tự quản đường biên, cột mốc ở Vĩnh Gia có mười thành viên, rải rác ở các ấp. Các chị đều làm nghề đan đệm và làm ruộng. Một tháng đôi lần, họ phối hợp cùng đồn biên phòng địa phương tham gia tuần tra biên giới. Nhờ có Tổ Phụ nữ, việc nắm thông tin và phát hiện ra thông tin bất lợi ở biên giới nhanh nhạy hơn, công tác tuyên truyền pháp luật, đặc biệt là Luật Biên giới quốc gia ở xã cũng được thuận lợi hơn trước, giúp bà con hiểu luật để tránh vi phạm, gây hậu quả nghiêm trọng…

Chia tay Vĩnh Gia, chúng tôi lại xuôi dòng. Nghe sông nước ngân nga những câu chuyện đẹp. Cũng giống như những dòng sông, trên những vùng đất biên cương này đang nuôi dưỡng những trái tim dịu dàng mà rất đỗi kiên dũng, mềm mại như nước nhưng vẫn luôn ẩn chứa nguồn sức mạnh vô song, bảo vệ từng tấc đất, ngọn sóng của Tổ quốc.

Có thể bạn quan tâm

Nhà báo Nguyễn Trọng Định - người đầu tiên từ bên phải qua. Ảnh tư liệu của Nhà báo Trần Mai Hạnh

Người ra đi từ gốc đa Hàng Trống

Trong bức ảnh được chụp ngày 14/7/1968 tại bộ phận tiền phương Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Đà thuộc địa bàn huyện Duy Xuyên có tám nhà báo thì sau đó bốn người là liệt sĩ, một người là thương binh nặng. Người hy sinh đầu tiên là nhà báo-nhà thơ Nguyễn Trọng Định, phóng viên Báo Nhân Dân, cùng trong tổ phóng viên vào chiến trường Quảng Đà một ngày với tôi", nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh hồi tưởng.
Lần họp lớp gần nhất là chuyến thăm Khu di tích lịch sử Bạch Đằng (Thủy Nguyên, TP Hải Phòng).

Trưởng thành nhờ đất nước và cùng đất nước

Tháng 6/2022 này, sinh viên Khoa Ngữ văn, khóa VIII, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) kỷ niệm 55 năm ra trường. Với lịch sử đất nước, 55 năm không dài. Nhưng quãng thời gian đó đủ để một thế hệ đi từ khởi điểm của tuổi thanh xuân đến cận kề những bậc thang cuối của đời người.

Người dân xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận thu hoạch trái thanh long. Ảnh: Duy Hiển

Ân tình miền cát

Mảnh vườn đang lên xanh-cái mầu xanh từ những cành thanh long vươn dài-của Quân là hình ảnh sống động và lưu lại đầu tiên trong tâm trí tôi khi về với náo nức đất trời Bình Thuận, trong những ngày cuối năm nhiều cảm xúc.

Nhà báo Trần Lâm.

Mùa thu với hai nhà báo lão thành

Kể từ mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đội ngũ báo chí cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đông về số lượng và tăng về chất lượng.

Nụ cười ấm giữa ngày giông bão

Thành phố lại vào mùa mưa. Những cơn mưa dầm dề suốt ngày cùng con số ca nhiễm tăng cao, thêm nhiều hình ảnh cay sống mũi, đỏ hoe mắt khiến người thành phố thao thức.

Người dân hẻm 17, đường Gò Dầu (phường Tân Quý, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh) đi chợ tại "Gian hàng 0 đồng sẻ chia cùng khu cách ly". Ảnh: HUẾ XUÂN

Sài Gòn ân nghĩa

Không ai hiểu rõ Sài Gòn bằng chính người Sài Gòn. Sự hào sảng, nghĩa tình, lạc quan của thành phố này đã khiến cái sự “trọng thương” mà người nơi khác ví von đã không còn là một cảm thán tội nghiệp. Tự bản thân người nơi đây sẽ biến nó thành một sự khích lệ, động viên, là một ân tình lớn lao, mà có lẽ phải trải qua “mùa dịch bệnh”, người ta mới càng thật sự thấm thía hết ý nghĩa của từ này.

Trái tim của tôi

Trái tim của tôi

Sau nhà tôi hồi xưa có một cái khe núi. Nhà tôi đã ở gần khe núi rồi, nhưng vẫn chưa phải là nhà cuối cùng. Cuối cùng là nhà một người Tày, nằm tận cửa khe núi luôn. Vào mùa đông, khe gần như cạn, những tảng đá to như lưng trâu nằm trơ trơ ra. Nhưng cuối xuân, đầu hè, khi những tiếng sấm bắt đầu ì ùng và mưa rào trút xuống, thì nước bắt đầu chảy len lỏi qua những khe đá, và đầy dần lên. Nếu mưa kéo dài chừng nửa ngày thì dòng suối sẽ như một con thuồng luồng dài ngoằng, dữ dội, lạnh lùng, cuốn phăng theo nó tất cả những gì nằm lổng chổng ven đường.

Miền sen và làng cổ

Làng cổ Nha Xá, xã Mộc Nam, Hà Nam nổi tiếng với những nếp nhà cổ và nghề dệt lụa. Người làng tự hào lắm một vùng quê yên bình, nằm giữa hệ thống ao, đầm sen rộng bát ngát.

11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN

Chiều 30 tháng 4, chúng tôi đến Sài Gòn

14 giờ ngày 30/4/1975, trên chiếc xe Jeep "lùn", chúng tôi - nhóm phóng viên báo Chiến sĩ Giải phóng - Quân đoàn 2, vào tới dinh Ðộc Lập. Lúc này sân trước Dinh đang ồn ã với số đông phóng viên báo chí và cán bộ, chiến sĩ ta.

Minh họa: THU HÀ

Cúi đầu trước núi

Tự dưng lúc này đây, khi đang ngồi dưới chân một dãy núi Tây Nguyên mà trong tôi lại trào lên cảm thức về những ngọn núi. Ðó có thể là nỗi ám ảnh mang mạch thở linh sơn đâu đó trong tâm tưởng. Ngắm núi mà muốn thốt lên lời tự lòng mình, ơi những chóp đỉnh cao vời, cho tôi xin được ngàn lần cúi đầu ngưỡng vọng…    

Tinh khôi hoa trắng

Về quê tôi dịp này có thể dễ dàng bắt gặp ở khắp các lối ngõ, bờ ao bừng lên một mầu trắng muốt tinh khôi của hoa dành dành. Mùi hương ngọt nồng dẫn lối đưa đường, dụ bao bướm ong dập dìu tụ tìm hút mật. Khi dành dành vào kỳ trổ hoa, ấy là mùa xuân cũng chuẩn bị khép lại.

Hà Nội mùa cây thay lá

Hà Nội mỗi mùa mang một sắc, mỗi con phố nhuốm một màu, thảy tất bốn mùa đều để lại cho ta cảm nhận những nét đẹp bâng khuâng trong sâu thẳm lòng mình mà khó có nơi nào có được. 

Cải vàng gọi nắng triền sông

Cuối năm, gió đã chuyển mình, cái rét len lỏi đâu đó trong từng nhành cây, ngọn cỏ. Hoa cải vào mùa, xôn xao rực vàng nơi triền sông vắng. Buổi chiều bỗng dài ra, lũ bướm ong tíu tít, mải mê bay lượn đến quên cả lối về.

Những ô cửa phố

Dịp cuối thu đầu đông, hương hoa sữa nồng nàn tỏa. Tôi có thói quen dạo phố một mình chỉ để nhẩn nha ngắm những ô cửa sổ, đôi khi ngỡ ngàng bởi chỉ là ô cửa sổ thôi cũng quá nhiều kiểu dáng thiết kế và mầu sắc trang trí. Rất nhiều ô cửa sổ nhìn ra đường, bên những ban-công được trồng nhiều khóm hoa xinh xắn. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cửa sổ có lẽ cũng là đôi mắt của ngôi nhà. Cửa sổ tạo mỹ quan cho không gian chung cả tuyến phố. Ở Hà Nội, các phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Phan Ðình Phùng, Nguyễn Gia Thiều… còn hiện diện nhiều ô cửa sổ nhuốm thời gian. Ở đó còn nhiều biệt thự cổ kính, những bức tường loang mầu hoài niệm, khi ấy những ô cửa như cũng trầm ngâm ưu tư, gợi nhắc về bao kỷ niệm xưa xa. Giữa một thành phố đông đúc, có lúc tắc đường đến ngộp thở, thì mỗi ô cửa này như những nốt nhạc trầm, đọng lại vẻ thi vị, thân thương

Mùa đông của cha

Ký ức sâu đậm trong chị về cha, gắn với thời tiết theo mùa. Tuổi ấu thơ của chị là những đêm hè lặng gió, oi nồng. Cha ngồi quạt đổi tay cho ba chị em đến khuya. Nhiều đêm, cha gần như không ngủ. Dạo ấy, điện là thứ xa xỉ, chỉ được dùng để thắp sáng trong mấy ngày Tết; còn lại, đèn dầu “làm bạn” với mọi nhà quanh năm, suốt tháng.

Bán thổ cẩm ở chợ Si Ma Cai. Ảnh: TUẤN LỢI

Si Ma Cai lên phố

Tháng 11-1966, xã Si Ma Cai (Lào Cai) được thành lập trên cơ sở ba thôn, gồm Phố Thầu, Phố Cũ, Phố Mới. Gọi là Phố nhưng thực chất ở đây, ngoài phiên chợ chủ nhật đông đúc, một dãy phố người Hoa ở phố cũ, Đồn Biên phòng, thì chỉ có mấy ngôi nhà gỗ dựng rải rác, vài cửa hàng mua bán đổi chác nông, lâm sản và vật dụng thiết yếu… song ba cái tên đã thể hiện khát khao lên phố của đồng bào. Qua nhiều năm xây dựng, phát triển, ngày 11-2-2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra quyết định thành lập thị trấn Si Ma Cai thuộc huyện Si Ma Cai.

Đỗ Đức Thắng (bên phải) và Hồ Văn Quang trong trận tiến công Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, Quảng Trị, tháng 4-1970. Ảnh: ĐOÀN CÔNG TÍNH

Người trong ảnh

Đến thăm các bảo tàng lịch sử ở Hà Nội và Thành cổ Quảng Trị, tôi đã nhìn thấy bức ảnh này: Hai người lính thông tin đang trong trận đánh đối mặt trực diện lực lượng địch. 

Đường hoa

Trời dịu nắng rủ tôi về làng, với những thân thương mà suốt thời tuổi thơ tôi và bạn bè đồng lứa có những trò chơi trẻ dại. Bao năm xa quê, có người phần nào “mất gốc” nhưng có những người vẫn đong đầy những ô vuông ký ức về làng như một thứ tài sản, soi mình vào hình ảnh của làng, của phố hay những cung đường đi qua để trân quý những vẻ đẹp thân thương, và để sống tốt hơn.

Vết thương

Vết thương

Trung tuần tháng 7-1972, trong trận phục kích đánh vào tiểu đoàn Bảo an của địch đến cứu viện cho đồn Tô Ma đang bị Tiểu đoàn 309 của ta bao vây, tôi bị thương khá nặng. Hôm đó, tôi vừa cầm khẩu AK bật dậy, thì một quả M79 của địch nổ phía trước tôi chừng chục mét.

Nước mắt của nữ chiến binh

Cô rất hay khóc. Tôi cũng hiểu. Dẫu cô nam tính, dẫu cô theo cách gọi cường điệu của tôi là một nữ tướng thì tướng vẫn có nước mắt.

Ngôi sao tháng bảy

Ngày tháng bảy bời bời xúc động khi cùng các bạn trẻ đoàn thanh niên của xã đến thăm mẹ. Mẹ là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, là niềm tự hào của xã Anh hùng quê tôi - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu nước, đã dâng hiến nhiều người con ưu tú cho Tổ quốc. Người dân quê chúng tôi vẫn thân thương gọi mẹ Hiền là bà Hến. Mẹ Hiền hiền lắm. Hiền như hoa trái trong vườn. Hiền như tên gọi mà mỗi khi cất lên đã chất chứa niềm nhân hậu.

Hoa ngọc lan vườn mẹ

Nhà tôi ở trong phố nên đất rất chật, mặt trước và mặt sau của ngôi nhà dài như ống tay áo, mẹ tôi cho người ta thuê để bán hàng. Ngõ dẫn vào khu giữa ngôi nhà nơi gia đình tôi sinh sống nhỏ như sợi chỉ khâu ở viền ống tay áo.

 Tượng đài Bác Hồ trên đảo Cô Tô (Quảng Ninh) Ảnh: Phạm Học

Mãi còn lưu dấu

1. Năm 1970, Tòa soạn báo Vùng mỏ chúng tôi được ông Ðỗ Thế Việt, cán bộ kháng chiến hoạt động ở khu mỏ Hồng Gai chuyển tới tấm thiếp của Bác Hồ gửi công nhân khu mỏ Hồng Gai năm 1953. Trong thư gửi kèm, ông Việt viết: "… Năm 1951, Công đoàn đặc khu Hồng Gai chúng tôi có gửi lên Việt Bắc biếu Bác Hồ một chiếc màn (quà biếu của một chị công nhân) và một bức tượng Bác bằng than đá do anh Trần Văn Mão, thợ mỏ Cẩm Phả tạc trong những ngày anh làm phu xe cuốc. Thì tháng 3-1953, Công đoàn đặc khu Hồng Gai nhận được tấm thiếp này của Bác Hồ từ Việt Bắc gửi về cảm ơn. Nay tôi thấy cần phải gửi về cho các đồng chí, mong được giới thiệu lại với công nhân khu mỏ về một bút tích quý giá của Bác…".

Nhật ký của một người Công giáo

Nhật ký của một người Công giáo

Cuối cùng tôi cũng đã tìm được nhà anh Triệu ở một phố hẻm quận Tân Bình. Sài Gòn mới được giải phóng. Thành phố tôi lần đầu đặt chân, nhưng lòng thì đã đến.

Những mùa hoa đậu biếc

Tôi nhận ra mầu tím hoa đậu biếc đang lấp lánh trong ly trà trước mặt mình. Trà hoa đậu biếc. Mầu tím ấy, thức dậy ký ức một thời tuổi thơ tôi trong vắt, bình yên.

Công suất các khu xử lý rác hiện nay chưa đáp ứng để thu gom và xử lý triệt để rác thải trên địa bàn thành phố.

Gỡ nút thắt quy hoạch, xử lý rác thải ở Hà Nội

Kỳ 2: Rà soát năng lực, đẩy nhanh tiến độ thực hiện

(Tiếp theo và hết)

Trong Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt từ tháng 10-2016, đã tính đến sự phối hợp vùng trong xử lý rác thải một số tỉnh chung quanh Thủ đô. Vấn đề quan trọng nhất là sự đồng thuận của nhân dân, nỗ lực của các cơ quan chức năng, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện dự án.