Một thuở B’lao

Đó là những năm từ 1964 đến 1967. Mỗi chiều về phố thị B’lao (Bảo Lộc, Lâm Ðồng) mang mang sương khói, người dân miền sơn cước này đã quen với hình ảnh một người trai trẻ ngậm điếu thuốc cháy dở trên môi, tay đút túi quần bước lững thững như vô định trên phố.

Một góc B’lao - Bảo Lộc (Lâm Ðồng) hôm nay. Ảnh: Nguyễn Văn Thương
Một góc B’lao - Bảo Lộc (Lâm Ðồng) hôm nay. Ảnh: Nguyễn Văn Thương

Chàng thanh niên ấy đến từ xứ xa. Những tín đồ tất tả theo chuông giục đến buổi thánh lễ cuối ngày cũng kịp ngoái lại nhìn chàng trai lạ với dáng vẻ gầy gò có mái tóc thưa buông dài phiêu lãng, cặp kính cận lấp loáng ánh mắt ngẩn ngơ một nỗi buồn man mác. Chàng ngắm phố tưởng như lơ đãng nhưng thẳm sâu hồn chàng giấu những u ẩn khó đoán. Hoàng hôn núi Ðại Bình tím sẫm, sương úa dần sang mầu hoang lạnh, chàng một mình với ly cà-phê đen sánh ngồi chờ đêm buông. Chàng trai ấy là Trịnh Công Sơn, người vừa bước tới tuổi 25 và đã có ca khúc Ướt mi khá nổi tiếng, nhưng chưa phải là nhạc sĩ họ Trịnh tài hoa với gia tài âm nhạc đồ sộ và những cảm thức mới lạ vài năm sau đó. Thuở ấy, anh là thầy giáo tiểu học vừa tốt nghiệp Trường sư phạm Quy Nhơn, được bổ chức giáo trưởng Trường sơ học Bảo An thuộc Ty tiểu học Lâm Ðồng trên miền núi rừng B’lao heo hút.

* * *

Tôi tìm về B’lao, tìm lại ký ức ba năm thầy giáo trẻ tên Sơn dạy học ở nơi này. B’lao xưa - Bảo Lộc bây giờ, người làm việc cùng thời với Trịnh Công Sơn những năm tháng ấy nay kẻ còn, người mất. Chuyện cũ qua lâu, nhưng vì yêu kính "người khổng lồ trong tân nhạc Việt", nên chuyện kể về ba năm nhập cuộc thời trai trẻ của ông ở phố thị sơn cước như vẫn còn tươi mới. Người dẫn tôi lên triền núi để giơ tay khoanh những lối cũ đã mờ nơi từng có ngôi trường Bảo An xưa là Nguyễn Ðức Vân, con trai của thi sĩ ẩn cư Nguyễn Ðức Sơn - một người bạn của Trịnh Công Sơn.

Từ phải sang: Trịnh Công Sơn, Tôn Nữ Kim Phượng và Ðinh Cường tại triển lãm tranh Ðinh Cường ở Ðà Lạt (12-1965).

Theo tư liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Ðắc Xuân, Trường sơ học Bảo An chỉ có ba lớp: 1, 2, 3. Sĩ số mỗi lớp chừng vài mươi em, đa số học trò là người dân tộc thiểu số, dăm em người Kinh. Cơ sở trường chỉ có hai phòng học mái lợp tranh vách nứa đứng chơ vơ trên một bãi đất trơ trụi. Phòng học không có cửa, nhiều bữa mây mù lãng đãng tràn vào lớp. Gió giật mái tranh xơ xác. Học trò con nhà nghèo, mặt mày mũi lọ nhem nhuốc, áo quần rách rưới nhưng ngoan. Sơ học Bảo An là ngôi trường nhỏ nên không có chức hiệu trưởng, người phụ trách thì gọi là trưởng giáo. Trịnh Công Sơn được đào tạo chính quy nên giữ chức ấy và đứng dạy lớp 3, ông Tạ Văn Thống sắp về hưu dạy lớp 1 và 2. Thu nhập mỗi tháng 5.200 đồng đã cho ông giáo Trịnh một đời sống dư dả. Nhà trọ của Trịnh Công Sơn tại B’lao là một ngôi biệt thự mới xây ở gần Ty Công chính Lâm Ðồng. Chủ ngôi nhà là cô Phi - trưởng phòng kế toán Ty này. Trịnh Công Sơn thuê nhà cùng với ba đồng nghiệp là Thanh Ty, Hảo Tâm và Văn Ba. Bà chủ nhà có dáng người mảnh dẻ, hơn ba mươi tuổi, cùng với đứa con gái ở chung trong nhà…

Từ dòng hồi ức của những người yêu Trịnh Công Sơn, tôi chắp nối câu chuyện về ông những ngày tháng ấy. Hiểu thêm vì sao, chính tự nơi này với nỗi hoang liêu cùng gió núi mây ngàn, Trịnh viết như đã ngấm lạnh vào tim mình những giai điệu vỗ về như Phúc Âm buồn cho kiếp người mệt nhoài "Người nằm co như loài thú khi mùa đông về. Người nằm yên không kêu than buốt xương da mình ". Hay cảm thức hoang hoải "Bụi về với mây. Người còn đó gieo hạt lúa trên ruộng đất nầy ". Cũng chính tự nơi này, Trịnh Công Sơn đã thiêu đốt tim gan khi nhận tin Mỹ đổ quân ồ ạt lên Tòa Khâm Huế. Bao bạn bè anh ở Huế, Sài Gòn, Ðà Lạt xuống đường chống lại việc dùng tuổi trẻ miền nam như một thứ củi đốt cho chiến tranh của Mỹ. Tin về người này nhảy núi, người kia bị bắt, người khác trốn lính… làm hồn Sơn buốt đau. Ngay người bạn thuê chung nhà là Văn Ba cũng chết vì trúng mìn trên chuyến xe đò B’lao - Sài Gòn, đã đâm vào tim Sơn thêm những mũi kim nhọn. Từ nơi này, qua những bức thư gửi cho người tình xa Dao Ánh, Sơn đã bộc lộ hết nỗi bi đát trong tâm hồn, anh ví mình như chàng Sisyphe trong tác phẩm của Albert Camus, bị khổ sai bằng việc hằng ngày phải lăn một tảng đá lên núi rồi thả tay cho lăn xuống núi, sự tồn tại vô nghĩa: "Người chợt nhớ mình như đá. Ðá lăn vết lăn buồn". Cũng từ nơi này, anh đã khóc bằng âm nhạc vắt ra từ nỗi chia lìa, niềm xót xa thân phận giống nòi: "Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè. Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương"…

* * *

Những buổi chiều cuối tuần, những ngày nghỉ lễ, từ B’lao buồn Sơn nhảy lên những chuyến xe đò về Sài Gòn đắm mình trong khói thuốc ngột ngạt với bạn bè. Ghé thị trấn D’răn uống rượu bên dòng Ða Nhim cùng họa sĩ Ðinh Cường, ngủ quên dưới bầu trời đầy sao và rừng đặc sương mù. Anh cũng dùng nhiều thời gian rảnh rỗi để lên Ðà Lạt với Ðặng Tiến, Kim Vui, Trịnh Cung cho khuây khỏa những ngày đêm thấy mình như "loài củi mục trên miền xứ bỏ hoang". Nhiều ca khúc Trịnh Công Sơn đã ra đời trên những chuyến xe đò ngược xuôi. Cũng từ một chuyến xe, Sơn đã gặp "cô gái quê" Nguyễn Thị Lệ Mai. Sau cuộc gặp gỡ định mệnh ấy, cô Mai đã biến thành ca sĩ Khánh Ly mà từ đó "tân nhạc Việt Nam không còn như cũ nữa", như báo chí đương thời phẩm luận.

B’lao những năm tháng ấy bên ngoài phẳng lặng mà trong lòng bức bối. Nó như là một nơi chốn tạm cư của những thân phận chán chường. Trong tâm cảm mỗi người đều trĩu nặng những phập phồng, âu lo. Gần với nơi Trịnh Công Sơn dạy học, từ tháp nhà thờ xứ Kohinda buông trầm những hồi chuông như tiếng thở dài bất tận, giọng cầu kinh vọng từ hậu đường Tu viện Bát Nhã cũng rền rĩ thanh âm cô tịch. Cũng gần chỗ Sơn, mấy giáo sư Ðại học Vạn Hạnh từ bỏ Sài Gòn trong thời nhiễu loạn lên ngọn đồi Phương Bối ẩn cư, mỗi hoàng hôn về lại đốt những nhánh củi ngo nhằm xua cái lạnh sẽ sâu hơn trong khuya. Giữa không gian hoang liêu B’lao, tiếng guitar bập bùng của Sơn hòa tiếng mõ lốc cốc nhà bên mỗi đêm thành huyền cảm nhật tụng cho nỗi bi thương của đất nước trong hồi tao loạn. Cảm giác hoang hoải bao trùm. Nhìn về phía biển, những chuyến tàu chở bom đạn Mỹ mỗi ngày cập cảng như mang tới những hụt hẫng đớn đau cho lời hẹn hòa bình. Ngước lên đầu non Trường Sơn, chớp lòe ánh lửa đại bác. Tiếng bom nổ tan thinh không đâu đó vọng về. Ngày càng nhiều những bìu ríu gánh gồng tránh loạn lạc từ phía đồng bằng lên miền cao trú ẩn. Nơi gửi thân tạm thời này cũng chẳng mấy yên lành. Tiếng xích thiết giáp nghiến trên đường lộ, xe jeep nhà binh hú còi inh ỏi, tiếng giày đinh, tiếng lách cách súng đạn hằng đêm vọng chóe khô khốc giữa phố thị B’lao. Thân thể Việt Nam như rách toạc thịt da bởi hận thù, chia cắt. Nước non chìm trong binh lửa điêu tàn là nỗi ám ảnh khôn khuây trong tâm hồn người thầy giáo trẻ nhạy cảm, đa tình. Từ những năm tháng ấy, trong cô đơn cùng tận, trong thổn thức về thời cuộc biến loạn, từ trái tim khắc khoải cùng đồng bào, đồng loại, Sơn đã lấy âm nhạc làm phương tiện giải cứu cho nỗi bi thương đã chạm vào nơi sâu đắm nhất trong tâm hồn mình.

Trịnh Công Sơn lặng lẽ náu mình nhưng âm thầm những giai điệu hình thành và phát lộ dần bởi những tâm cảm và dự cảm khác biệt. Ba năm, chỉ ba năm thôi, trong nỗi buồn tê tái, trong sự nhàn rỗi của một ông giáo làng dạy học nơi lưng chừng núi, nhạc sĩ họ Trịnh đã lần lượt cho ra đời những bản tình ca buồn: Chiều một mình qua phố, Lời buồn thánh, Vết lăn trầm, Tiếng hát Dạ Lan,… Trong nỗi đìu hiu, hình ảnh cô Ngà ở xứ B’lao mỗi chiều đi lễ nhà thờ qua con đường trước cửa phòng anh với vóc dáng mảnh mai, khuôn mặt thánh thiện đã làm Sơn mất ngủ. Ca khúc Tuổi đá buồn đã được anh viết lên từ cảm ảnh người thiếu nữ ấy với nỗi cô đơn hư vô nhuốm chút siêu hình: "Trời còn làm mưa mưa rơi mưa rơi. Từng phiến băng dài trên hai tay xuôi. Tuổi buồn em mang đi trong hư vô ngày qua hững hờ… Tuổi buồn như lá. Gió mãi cuốn đi. Quay tận cuối trời…". Cũng chính trong thời gian này, tập nhạc phản chiến mang tự tình dân tộc "Ca khúc da vàng" ra đời. "Ca khúc da vàng" bắt đầu từ mùa hè 1966 bằng những đêm nhạc Trịnh ở Trường tư thục Việt Anh và Viện Ðại học Ðà Lạt, rồi sau đó cất lên trên giảng đường Ðại học Văn khoa Sài Gòn, trên khắp miền nam bởi tiếng hát Khánh Ly và những người Việt Nam tha thiết giống nòi. Những giai điệu bi cảm hát về quê hương điêu tàn, hát về giấc mơ hòa bình, hát về vòng tay lớn sẽ nối trong khao khát chờ đợi. Âm nhạc thốt lên từ trái tim chất chứa yêu thương của Trịnh đã băng bó, đã tưới tắm phần nào những vết thương trên đại lộ chiến tranh chết chóc. Cho đến hôm nay, âm nhạc ấy vẫn làm cho lòng người ấm áp, muốn nắm tay nhau hơn là khắc sâu hận thù...

Chỉ ba năm ăn lương thầy giáo và sống với núi rừng, nhưng thiên nhiên tịch liêu và những nỗi niềm nhân thế từ nơi chốn này đã góp phần kích trỗi trong tâm hồn người nhạc sĩ của tình yêu thương những cảm thức ám ảnh. Rồi một ngày, thầy giáo - nhạc sĩ trẻ giã từ B’lao khi thư tín đến, bản danh sách khóa 20 của Trường Bộ binh Thủ Ðức đã ghi danh Trịnh Công Sơn. Rời Trường sơ học Bảo An, rời núi rừng, nhưng Sơn không đến quân trường, anh ra đi và phải sống một đoạn đời "bất hợp pháp". Người đàn ông tài hoa và đa cảm ấy chỉ có thể căng lồng ngực cất lên những bản tình ca, những nhạc phẩm chống lại chiến tranh, chứ không bao giờ cầm lấy cây súng thép lạnh lẽo và đe dọa chết chóc trên tay...

Có thể bạn quan tâm

Chưa bao giờ B. lại thấy nhà mình tràn ngập hoa cúc vàng dịp 20/11 như năm nay.

Chuyện của những đóa cúc vàng

"Năm nào, đến 20/11, ba mẹ em cũng mở cửa từ sáng tới chiều không kịp đóng vì cứ 15-20 phút lại có tốp trò cũ đến thăm. Hoa hồng nhiều lắm. Ba mẹ phải chuẩn bị sẵn hai cái thùng to dưới bếp để ngâm nước, sợ héo. Năm nay, nhà toàn hoa cúc vàng, nhìn lạ quá", N.Đ.B. (TP Thủ Đức) đưa mắt nhìn quanh nhà một lượt rồi lặng lẽ ra ghế ngồi. Ngoài trời, mưa tầm tã rơi.

Thành phố đã tỉnh lại, sau một cơn mê dài.

Một cuộc đời bình thường là hạnh phúc

Mẹ tôi bảo: "Giờ ra đường gặp lại ai cũng mừng. Thấy người đó còn khỏe mạnh là vui lắm rồi". Gần hai tháng sau khi TP Hồ Chí Minh hồi phục, dư chấn đại dịch vẫn in hằn. Song, nếu thành phố có phần nào "chậm" lại, thì cuộc đời lại có phần sâu sắc và gắn kết hơn.

Lãnh đạo tỉnh Yên Bái và ngành Y tế chia tay các thành viên Đoàn công tác lên đường hỗ trợ TP Hồ Chí Minh. Ảnh: Việt Dũng - TTXVN

Triệu triệu trái tim chung nhịp đập

TP Hồ Chí Minh đang trong những ngày giãn cách xã hội, khó khăn nhiều bề. Nhưng người dân nơi đây không đơn độc! Con cá ngon ở miệt biển, mớ rau xanh, cân gạo tận miền núi cao… được các tình nguyện viên, bà con chuyển đến vùng tâm dịch, các khu cách ly.

Không gian một thư viện hiện đại Utopia ở Bỉ.

Thư viện hiện đại và "bộ gene" chia sẻ

Biết tôi học nghề thư viện tại Bỉ, bạn bè gốc Việt lắc đầu "tranh nổi việc với dân bản xứ không". Học viên bản xứ cũng băn khoăn: "Bây giờ Google trả lời trong một nốt nhạc, đọc sách online, xem báo miễn phí. Ai vào thư viện?". Giảng viên dạy Nhập môn cười: "Ðấy, còn hỏi, còn băn khoăn nghĩa là còn cần thư viện".

Sau những bất đồng, cả hai lại thấu hiểu nhau hơn, cùng nhau vượt qua những chênh vênh.

Thể dục và "cái duyên không được bỏ lỡ"

10 năm yêu nhau và bảy năm nên duyên vợ chồng, chuyện tình đẹp như mơ giữa Trương Minh Sang - Nguyễn Thu Hà có lẽ luôn là ý niệm đầu tiên lóe lên trong suy nghĩ nhiều người, khi nhắc đến "những cặp đôi vàng" trong làng thể thao Việt Nam.

Cụ Giáo luôn mong muốn truyền thống tốt đẹp của gia đình được các cháu, chắt hiểu và gìn giữ.

Mạch nguồn bất tận

Liệu còn những kết cấu "tứ đại đồng đường" êm ấm, thuận hòa trong xã hội hiện đại đầy phức tạp ngày nay? Cũng chẳng khó để tìm câu trả lời, khi tôi tìm gặp được không ít gia đình có cách "quản trị" độc đáo, giúp các thành viên luôn duy trì được những mạch nguồn gắn kết.

Một người phụ nữ trong xưởng HTX cộng đồng.

Những lựa chọn ở Nậm Đăm

Lý Văn Quang nói đang hoàn thiện thêm một dãy nhà bungalow, ngoài bốn căn bungalow (kiểu nhà một tầng phổ biến ở các khu nghỉ dưỡng) đang hoạt động. Mô hình bungalow của cậu có vẻ hút khách. Cuộc khởi nghiệp của anh chàng người Dao làng văn hoá Nậm Đăm (huyện Quản Bạ, Hà Giang) có vẻ rất khả quan, ngay cả vào cái “năm Covid” đang khiến cả ngành du lịch điêu đứng.

Dzũ Kha, người giữ lửa thơ Hàn.

Thơ còn rực lửa bên đồi Thi nhân

Đã 80 năm thi sĩ Hàn Mặc Tử hết duyên trần (11-1940 - 11-2020). Thời gian ấy tưởng đâu xa lơ xa lắc so với 28 năm vụt sáng chốn dương gian này của người thơ. Nhưng không, như một câu của Hàn Mặc Tử, “một mai kia ở bên khe nước ngọc, với sao sương anh nằm chết như trăng”, thì cảnh ấy, người ấy, thơ ấy, thêm những mối lương duyên tuyệt đẹp của cả đời xưa lẫn đời nay đã thành bất tử. Gió Ghềnh Ráng - Quy Nhơn vẫn lồng lộng thổi, trăng vẫn sáng trong và thơ Hàn còn nguyên lửa ấm.

Chiến sĩ Trần Thành, đoàn viên Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu, ôm bom ba càng, sẵn sàng tiêu diệt xe tăng địch trên đường phố Thủ đô Hà Nội ngày 23-12-1946 - những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, với ý chí "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Ảnh: Nguyễn Bá Khoản (TTXVN)

Nhiếp ảnh dân tộc từ Mùa thu Cách mạng

Cách mạng và các nhà nhiếp ảnh Việt Nam yêu nước tiền bối đã vạch cho nhiếp ảnh Việt Nam một sứ mệnh: Rời cửa hiệu xuống đường đấu tranh, trực tiếp viết sử bằng ống kính của mình. Và họ đã viết rất trung thực, sinh động bằng tất cả trí tuệ, tình cảm… thậm chí bằng máu và nước mắt của cả người cầm máy lẫn người trong ảnh.

Diều sáo phiêu du

Diều sáo phiêu du

Bá Dương Nội, xã Hồng Hà (Đan Phượng, Hà Nội) không chỉ nổi tiếng với thương hiệu làng của những đô vật nổi tiếng, mà còn được biết đến với thú chơi diều độc đáo đã trở thành nét văn hóa. Điều thú vị, cũng bắt đầu từ cánh diều ấy mà nghệ nhân ưu tú (NNƯT) Nguyễn Hữu Kiêm (bên phải) đã góp phần quảng bá đất nước, con người Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Mộ ông Bửu Ðiềm.

Thắp một nén hương, lòng tưởng niệm

Ðiềm Phùng Thị (tên khai sinh Phùng Thị Cúc - sinh năm 1920) là một ngôi sao tỏa sáng của nghệ thuật tạo hình thế giới, đặc biệt về ngành điêu khắc. Bà được bầu làm Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học, Văn học và Nghệ thuật châu Âu, và là một trong hai người châu Á hiếm hoi có tên trong Từ điển Larousse: Nghệ thuật đương đại thế kỷ XX, xuất bản năm 1991.

Dòng Pô Kô, đoạn chảy qua địa phận huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai.

Qua tháng ngày hỏi sông ơi có nhớ...

Không nhớ là năm nào nữa, lâu lắm rồi, cái thời còn bao cấp ấy, một lần ghé Nha Trang, hẹn mấy anh em ngồi với nhau. Hồi ấy ngồi vui lắm. Là cứ hẹn thế còn... tiền đâu mà ngồi thì không biết. Trong một lần mấy anh em văn nghệ ngồi với nhau như thế thì ông nhà thơ Trần Chấn Uy chở tới một ông già khá hom hem và luộm thuộm nữa. Nghĩ chắc người nhà ông Uy ngoài quê mới vào, ổng chở tới chơi luôn. Nhưng khi vào, ổng mới trịnh trọng giới thiệu: “Nhạc sĩ Tố Hải, Đăk Rông mùa xuân về”.

Các con của chị Thanh cùng mẹ làm băng-rôn bằng ba thứ tiếng Hà Lan - Việt Nam - Anh, cảm ơn những người đang ngày đêm nỗ lực cứu chữa bệnh nhân, phục vụ cộng đồng.

Sự sống trong tầm tay

Những cô thợ may gốc Việt bé nhỏ ở Bỉ, Ðức cặm cụi làm khẩu trang miễn phí. Một Việt kiều tại Anh có bệnh lý nền nhắn tin “Tôi không về nước tránh dịch lúc này bởi nhiều lý do, trong đó có lý do nguy cơ lây nhiễm ở sân bay và trên máy bay”. Mỗi người dân đều có thể gìn giữ được sinh mạng quý giá cho nhau bằng những hành động có ý thức, ngay trong tầm tay lúc này.

Có rất nhiều nghịch lý ở câu chuyện tranh Đông Hồ. Ảnh: NGÔ VƯƠNG ANH

Số phận những dòng tranh dân gian Việt

Tranh dân gian Việt Nam có giá trị không? Câu trả lời, dĩ nhiên là có. Nó đã được khẳng định nhiều lần bởi các nhà khoa học, giới mỹ thuật. Nhưng có bao nhiêu người Việt hiện đại còn treo tranh dân gian để trang trí nhà cửa? Tưởng như nghịch lý, nhưng câu trả lời, dĩ nhiên là rất hiếm. Nếu không thể tìm ra phương thức để thích ứng với thị trường, với cuộc sống, thì tình trạng trên, chắc chắn, sẽ còn kéo dài.

Thu hoạch tầm vông.

Tầm vông xanh miền biên ải

Ðã cuối mùa mưa. Biên viễn Tây Nam khét khô mùi nắng. Những cung đường vùng Bảy Núi - từng là căn cứ oanh liệt trong các cuộc chiến đấu vệ quốc của quân và dân An Giang anh hùng, dường như được xoa dịu đôi phần bởi bạt ngàn tầm vông xuất hiện hai bên đường, trước ngõ nhà, đường lên núi... Bất chấp sự khô cằn, tầm vông vẫn vươn cao, thẳng tắp…

“Hoa của Mỷ” chụp năm 2018

Hoa của đá

Hà Giang, mùa hoa tam giác mạch. Khi nắng chớm đông rắc ánh sáng trên những ruộng hoa phớt tím, những đứa trẻ vùng cao đã biết phải tất bật cho một mùa vụ đón khách phương xa. Du lịch thay đổi sâu sắc đất và người nơi đây. Song, không có nhiều em nhỏ biết, chính những con chữ mới đủ sức đưa chúng đến với chân trời dài rộng, bên ngoài những vách đá dựng trập trùng.

Những mùa hoa ở lại...

Những mùa hoa ở lại...

“Hà Nội, thủ đô của hương, của hoa” như cách gọi của nhà văn Băng Sơn, cất giữ cho mình 12 mùa hoa theo vòng quay của năm. Dẫu có những khoảng thời gian thật dài, đâu đó những mùa hoa bị lạc nhịp trong đời sống đô thị, nhưng mạch chảy ký ức chưa bao giờ ngừng nghỉ trong tâm thức người Hà thành. Để rồi đâu đó, vẫn có những thế hệ tiếp nối kể câu chuyện về những mùa hoa.

Đón ánh bình minh đầu tiên trên dải đất hình chữ S.

Đón hừng đông ở cực đông Tổ quốc

Trước đây, mũi Đại Lãnh (Phú Yên) nổi tiếng với danh hiệu “Nơi đón ánh bình minh đầu tiên trên đất liền Việt Nam”. Tuy nhiên, sau khi tiến hành đo đạc chính xác, Cục Di sản văn hóa - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ghi nhận mũi Đôi (Khánh Hòa) ở vị trí 109 độ 27 phút 55 giây kinh độ đông, xa hơn mũi Đại Lãnh (109 độ 27 phút 06 giây), trở thành điểm cực đông của Tổ quốc - niềm khao khát khám phá mới với những người đam mê “xê dịch”.

Ông Hồ Văn Lâm (thứ tư, từ trái qua) cùng bà con kiều bào đến thăm Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở tỉnh Udon Thani.

Hướng về nguồn cội

Luôn hướng về quê hương, đất nước, đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, nhiều năm trở lại đây, ông Hồ Văn Lâm sống ở tỉnh Udon Thani (Thái-lan) đã không ngừng phấn đấu, tích cực tham gia hoạt động của cộng đồng, trở thành một kiều bào gương mẫu, một doanh nhân thành đạt…

Mỗi khi có dịp, ông Vũ Văn Cảnh lại lên thắp hương cho đồng đội tại Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên (Hà Giang).

Lan tỏa nghị lực và tinh thần người lính

Trải qua muôn vàn gian khổ trong chiến đấu, nhiều thương binh trở về cuộc sống đời thường với những vết thương còn đau nhức. Song với phẩm chất cao quý của Bộ đội Cụ Hồ, những người lính ấy đã khắc phục khó khăn, sống tiếp phần đời sáng đẹp, làm chỗ dựa cho con cháu, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn hơn.

Những cánh ruộng bậc thang tạo nên những cung bậc mềm mại cho cảnh sắc. Ảnh: ĐỖ MỸ LY

Trở lại Pù Luông

Pù Luông đây ư?

Tôi chẳng còn nhận ra những nét thân quen nào nữa. Ngày trước đến các bản phải len chân trên những lối mòn với cây cối rậm rạp, gặp khi mưa gió thì trơn lầy, không cẩn thận dễ sa xuống khe suối. Bây giờ đường trải nhựa, xe ô-tô chạy đến tận các bản, điện đã đến từng nhà, chỉ hai thứ ấy thôi đã mang lại sự thay đổi cho vùng đất này. Tôi ngẩn ngơ trước một Pù Luông mới, để mặc cho ký ức ùa về…

Trong 25 m2 nhỏ bé ấy, có tất cả những vật dụng cần thiết được chế tạo thân thiện với môi trường.

Hành trình sống "Không rác thải"!

Rác thải, đặc biệt là rác thải nhựa được nhận diện là thủ phạm gây nên những tổn thương sâu sắc đối với môi trường sống chung quanh ta. Ðang có những con người tiên phong từ bỏ sự tiện lợi của các loại bao bì nhựa, ni-lông để lựa chọn và theo đuổi cuộc sống không rác thải (Zero Waste). Cô chủ nhỏ của Go Eco HaNoi là một trong số đó.

Ngày một nhiều du khách muốn đến với làng cổ Phước Tích. Ảnh: NGUYỄN KHOA

Phước Tích trong giấc mơ trưa

Nắng chính ngọ chảy tràn xuống dòng Ô Lâu xanh ngắt, hong óng lên sắc nâu của mái ngói cổ cong cong theo năm tháng. Không tiếng gà gáy trưa, Phước Tích (huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế) như chìm vào cõi riêng. Bỏ quên câu hỏi: Đến bao giờ ngôi làng cổ thứ hai của Việt Nam được đánh thức để tạo nên điểm nhấn cho du lịch của đất Thần Kinh?

Họa sĩ Tô Ngọc Thành đam mê, giàu cá tính sáng tạo.

Tươi nguyên miền ký ức

Dường như tuổi càng cao càng hối thúc họa sĩ Tô Ngọc Thành (ông tuổi Thìn - 1940) trở đi trở lại với vùng rẻo cao biên cương phía bắc của Tổ quốc yêu thương. Chẳng quản đường sá xa xôi, thời tiết khắc nghiệt cùng thiên tai rình rập, sau những chuyến đi, ông đem về Thủ đô Hà Nội trưng bày liên tiếp những cung bậc sắc mầu về phong cảnh và con người vùng đại ngàn trùng điệp, trong đó có những bức vẽ trẻ em rất ấn tượng.

Biểu diễn Fado trong Bảo tàng thành phố Faro.

Nghe Fado ở Faro

Giữa các phố nhỏ quanh co thơm mùi bánh Nata rắc bột quế và trầm ấm ánh đèn dầu vàng ở quận Alfama của Thủ đô Lisbon (Bồ Đào Nha), chữ Fado được viết bằng phấn trên bảng nhiều quán ăn như thực đơn chính: “Ở đây có Fado”, “Fado bắt đầu lúc 20 giờ”. Âm nhạc Fado của người Bồ Đào Nha - di sản văn hóa nhân loại đang có một đời sống thuận tự nhiên đến cảm động.

Chợ phiên San Thàng mang đậm âm sắc của một phiên chợ vùng cao.

Hấp dẫn chợ phiên San Thàng

Nằm ngay đầu vào của thành phố Lai Châu, chợ phiên San Thàng là một phiên chợ vùng cao khá lý thú. Ở đó có đầy đủ, đa dạng các sắc mầu văn hóa của bà con đồng bào các dân tộc bản địa. Ðến chợ vừa có thể mua sắm, vừa có thể ăn, chơi; đồng thời có thể khám phá được cái riêng, độc đáo của vùng đất, con người Lai Châu.

Các bác sĩ phẫu thuật ghép gan cho người bệnh.

Thêm cơ hội sống cho người bệnh hiểm nghèo

Có mấy ai sẵn sàng hy sinh phần tốt đẹp nhất cho người khác, đặc biệt là cho đi một phần cơ thể của mình? Vậy mà, tại các bệnh viện (BV) lớn ở TP Hồ Chí Minh, rất nhiều những người lạ có, thân quen có… đã sẵn sàng hiến một phần cơ thể cho người bệnh (NB) đang trong cơn nguy kịch; hay hiến cả bản thân khi nằm xuống nhằm giúp người còn sống.

Chị Lê Thị Trúc Loan cùng đồng nghiệp trong dưỡng đường cổ vũ đội bóng đá Bỉ.

Nơi cần cả yêu thương & sức lực

Tôi tình cờ gặp Lê Thị Trúc Loan trên một chuyến xe buýt. Loan là người gốc Việt đầu tiên nhận bằng Zorgkundigen của trường Solidariteit Voor Het Gezin tại Brussel khóa 234 (trường kết hợp đào tạo nghề cùng VDAB - Trung tâm giáo dục lao động và dạy nghề của chính quyền vùng Flanders, Bỉ). Khóa học ban đầu thu hút hơn trăm học viên, tốt nghiệp chỉ còn hơn chục. Một nghề không đơn giản chỉ cần chăm chỉ, mạnh tay khỏe chân.