Diều sáo phiêu du

Bá Dương Nội, xã Hồng Hà (Đan Phượng, Hà Nội) không chỉ nổi tiếng với thương hiệu làng của những đô vật nổi tiếng, mà còn được biết đến với thú chơi diều độc đáo đã trở thành nét văn hóa. Điều thú vị, cũng bắt đầu từ cánh diều ấy mà nghệ nhân ưu tú (NNƯT) Nguyễn Hữu Kiêm (bên phải) đã góp phần quảng bá đất nước, con người Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Diều sáo phiêu du

Tự hào thú chơi nghìn tuổi

Chiều buông, diều sáo gác lên nền trời mây, du dương tiếng sáo vọng xuống. Phía dưới làng mạc ven đê sông Hồng trù phú. Con đê cong cong lãng mạn. Ngôi nhà của NNƯT Nguyễn Hữu Kiêm rợp bóng cây xanh, lâu nay đã trở thành điểm hẹn của những người bạn, các thành viên Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ (CLB) diều sáo Bá Dương Nội và nhiều vị khách phương xa nghe tiếng tìm về.

Theo ông Kiêm, Bá Dương Nội xưa có tên nôm là Bá Giang, dẫu cái nghèo còn đè nặng vai, nhưng chưa khi nào người dân nơi đây để mất “nghề chơi công phu” bao đời. Cũng từ một thú chơi mà ngày nay xuất hiện không ít “đại gia” làm diều như Nguyễn Hữu Ngọ, Nguyễn Hữu Kiêm, Nguyễn Gia Đỗ, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Văn Quyết,…Dựa vào thế đất ven đê, có gió lộng, những cánh đồng rộng bát ngát, ngay từ khi thơ bé, lớp trẻ ở làng thường đã biết cách khéo léo thả cho những cánh diều nhỏ cưỡi gió, cưỡi mây. Theo thời gian, lớp trẻ lớn dần, tiếp nối ước mơ và thú chơi diều của cha ông.

Cụ thân sinh nghệ nhân Nguyễn Hữu Kiêm là nghệ nhân Nguyễn Hữu Ngọ, một trong những người chơi diều nổi tiếng nhất ở Bá Dương Nội. Thế nên từ nhỏ ông Kiêm đã thừa hưởng tình yêu diều từ bố và thường đi tìm tre gọt sáo. Lớn lên, ông công tác trong ngành điện lực, có điều kiện đi nhiều địa phương và mỗi nơi ông đều để ý đến thú chơi diều ở các địa phương ấy. Ông từng trở đi trở lại nhiều ngôi làng nổi tiếng ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định, Thái Bình, Thừa Thiên Huế… Nhờ đó, ông có cả kho tàng câu chuyện về diều, sáo diều. Cũng chẳng ít lần ông mang diều của mình đi giao lưu, ở cuộc nào tiếng sáo diều của ông cũng khác biệt. Ông Kiêm được mọi người trong làng bầu là Chủ nhiệm CLB diều sáo Bá Dương Nội.

Theo sử sách và lời kể của bậc cao niên trong làng, thú chơi gắn liền với công lao của tướng Nguyễn Cả, vị tướng thời vua Đinh Tiên Hoàng. Sau khi giúp vua dẹp loạn 12 sứ quân, tướng quân Nguyễn Cả từ quan về làng, dạy dân làm ruộng, mở hội... Những năm tháng vui thú điền viên, ông bày cho đám trẻ trong làng nhiều trò chơi thú vị, trong đó có trò thả diều. Không biết tự khi nào, mà người lớn cũng bị cuốn hút vào thú chơi ấy. 

Người Bá Dương Nội lúc nào cũng nhớ một câu chuyện dân gian gắn liền với nguồn gốc của những cánh diều. Thuở xa xưa, khi trời đất giao hòa với nhau, mỗi lần dưới đất có lễ hội thì các nàng tiên thường xuống tham dự. Một ngày nọ, bầu trời bỗng cao lên, cao lên mãi, khiến các nàng tiên cất cánh bay đi, không trở lại. Dân gian muốn gửi gắm sự nhớ nhung lên trời bằng cách thả diều, nhưng lại e là quá tẻ nhạt, nên nghĩ ra cách tạo thêm âm thanh bằng những thanh sáo nhỏ. Là những lời gọi mời các nàng tiên xuống trần gian.

Nét tinh tế 

Nghệ nhân Nguyễn Hữu Kiêm mang những con diều hình lá muỗm ra sân, giới thiệu chi tiết từ cách làm xương của diều cho đến cách làm từng bộ sáo. Trong các làng quê Việt Nam, thú chơi diều không phải là chuyện hiếm. Mỗi loại diều thường “kèm theo” sáo tre và có nhiều cách làm diều sáo, như sáo đôi, sáo ba, sáo bảy, sáo chín, sáo mười. Ở các tỉnh, thành phố dọc sông Hồng thường chơi diều không đuôi, sáo ngắn, mỗi diều chỉ kèm một sáo hoặc sáo đôi. Ông bảo, nhiều chuyên gia nước ngoài đã tìm đến để nghiên cứu diều sáo Việt Nam. Họ ghi nhận trên thế giới, chỉ có Việt Nam là có diều kèm theo sáo.

Diều sáo phiêu du -0
Nghệ nhân Nguyễn Hữu Kiêm (người thứ hai, từ phải sang) mang cánh diều Việt Nam giới thiệu tại Pháp. 

Sáo đôi thường sinh ra tiếng du dương, lúc trầm lúc bổng mà các nghệ nhân làng Bá Dương Nội gọi là “mẹ gọi con thưa”, hai tiếng hòa vào nhau, êm ái, đổ hồi. Theo ông Kiêm, vùng đồng bằng Bắc Bộ có nhiều làng chơi diều sáo, nhưng không ở đâu mà âm thanh tiếng sáo diều hay như ở Bá Dương Nội.Tạo ra hợp âm của hai sáo không phải ai cũng làm được. Tai người làm sáo phải chuẩn, tinh tế thì mới tạo ra tiếng khớp nhau. Bởi vậy có người cả đời chỉ làm được một bộ sáo hay. Ông Kiêm nhấn mạnh: “Chúng tôi đi tham khảo, tìm hiểu ở nhiều làng thì biết được rằng, những người làm được sáo hay chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ngày nay nhiều thanh niên chơi diều cố tạo nên cả dàn sáo, có khi đến 12 chiếc. Nhưng thả lên trời nghe như tiếng cưa xẻ chứ không còn là sáo diều nữa. Nó cứ dồn nhau, tiếng khê lắm”.

Ông Kiêm nói thêm, vì là thú chơi văn hóa nên khi chọn tre làm diều, người dân cũng phải chọn tre mới, được trồng ở vị trí sạch đẹp, muốn cho khô phải phơi ở trên cao. Khi vót xương diều không để phụ nữ hay trẻ em bước qua. “Đó là lý do vì sao trước đây bố tôi và các cụ trong làng thường làm diều vào ban đêm, lúc ấy con cháu đã đi ngủ hết, một mình ngồi làm để giữ cho diều được thanh cao. Sau mỗi ngày thả diều hay mỗi dịp thi, diều cũng phải được gác lên nóc nhà. Việc chọn tre làm sáo của làng tôi cũng hết sức công phu. Chúng tôi chọn cây tre già, loại già đến độ chết đứng trong bụi cây. Việc gọt lỗ sáo hết sức công phu (lỗ để gió thổi tạo ra âm thanh). Khâu gọt để tạo âm thanh mới quyết định tài năng”, ông Kiêm chia sẻ.

Diều sáo Việt ra thế giới

Hiện nay trong kho tư liệu của gia đình, NNƯT Nguyễn Hữu Kiêm còn giữ được hai công trình của các nhà nghiên cứu người Pháp, về diều quốc tế và Việt Nam, đồng thời có một cuốn tạp chí in tấm ảnh cụ thân sinh ra ông - nghệ nhân Nguyễn Hữu Ngọ nhận bằng khen vì có nhiều thành tích gìn giữ văn hóa diều truyền thống (tạp chí in năm 1999). Ông Kiêm bảo: “Hóa ra cách đây hàng chục năm, người nước ngoài đã tìm hiểu về diều truyền thống của Việt Nam. Nhưng diều của nước ta vẫn chưa… ra thế giới. Năm 2008, tôi về hưu và có hai ước muốn, thứ nhất là tôn tạo miếu Diều (thờ thần Châu Thổ) và năm 2010 đã làm được. Thứ hai là đưa diều Việt Nam ra thế giới và chúng tôi cũng đã làm được”.

Ông Kiêm cho hay, từ năm 2007, CLB diều sáo Bá Dương Nội tham dự Festival Diều quốc tế Vũng Tàu. Sau 5 năm liên tiếp, diều Bá Dương Nội đã được Hiệp hội diều Đông - Nam Á biết đến, các nhà nghiên cứu, nhà sưu tầm tìm đến làng ngày một nhiều hơn. Từ đó, diều sáo Việt Nam có cơ hội ngân nga ở bầu trời quốc tế. Việc ông Kiêm được mời tham dự các festival tại Thái-lan, Ma-lai-xi-a, rồi Trung Quốc, Pháp, Cam-pu-chia chứng tỏ sự lan tỏa của danh tiếng diều Bá Dương Nội. Sau đó nhiều lần, các thành viên trong CLB diều sáo Bá Dương Nội được mời đi Ấn Độ, Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Phi-li-pin, Bru-nây… để biểu diễn diều sáo. Có một cái khó là, nếu diều để “cả chiếc” thì việc mang ra nước ngoài vô cùng khó khăn. Nhưng người Bá Dương Nội nghĩ ra cách làm con diều có thể tháo rời các chi tiết và cho vào hộp, khoác như đàn ghi-ta, đến nơi cần đến thì ghép lại.

Năm 2012 ông Kiêm mang diều đi trình diễn ở Liên hoan Diều quốc tế tại Pháp, có sự tham gia của đại diện 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. “Năm ấy tôi mang theo hai diều. Ở bên đó gió rất tốt, diều lên cao, sáo kêu hay không thể tưởng tượng được. Trong 50 đoàn tham dự, chỉ diều của Việt Nam có âm thanh du dương tiếng sáo, lạ tai hay đến vậy. Nhiều người ở cách cuộc biểu diễn mấy cây số cũng tìm đến xem vì nghe tiếng sáo lạ. Đó là những ngày thật tự hào và hoành tráng. Một kỷ lục gia người Ai-len qua hai lần thả diều đã phải thốt lên: Diều của Việt Nam hay tuyệt vời, từ nay trong các Liên hoan Diều quốc tế, không thể thiếu Việt Nam!”, ông Kiêm bồi hồi nhớ lại.

Tiếp nối truyền thống, các con, cháu trong gia đình ông đều đam mê diều. Ông Kiêm quan niệm, chơi diều là chơi cho mình, đó là thú chơi không chỉ để thư giãn mà còn hội tụ giá trị văn hóa, lịch sử của dân tộc, cùng với đó còn là ước vọng về hòa bình, mưa thuận gió hòa cho mùa màng tốt tươi.

Tiếng sáo diều Việt Nam chắc chắn sẽ còn ngân xa hơn nữa.

Hằng năm, cứ đến ngày 15-3 âm lịch, người dân Bá Dương Nội lại tấp nập tổ chức hội thi diều tại sân đền thờ thần Châu Thổ, thu hút du khách thập phương. Diều được chọn thi có kích thước 2,2 m trở lên, đèo ba sáo, sáo bé nhất phải có đường kính ống 2,5 cm. Nhiều năm trong cuộc thi, mây sà xuống, diều lẫn vào mây, diều lên cao, nên các “diều thủ” phải chuẩn bị cuộn dây dài 2.000 m. Diều nào lên cao nhất, đứng, không chao đảo là ăn giải nhất.

Có thể bạn quan tâm

Chưa bao giờ B. lại thấy nhà mình tràn ngập hoa cúc vàng dịp 20/11 như năm nay.

Chuyện của những đóa cúc vàng

"Năm nào, đến 20/11, ba mẹ em cũng mở cửa từ sáng tới chiều không kịp đóng vì cứ 15-20 phút lại có tốp trò cũ đến thăm. Hoa hồng nhiều lắm. Ba mẹ phải chuẩn bị sẵn hai cái thùng to dưới bếp để ngâm nước, sợ héo. Năm nay, nhà toàn hoa cúc vàng, nhìn lạ quá", N.Đ.B. (TP Thủ Đức) đưa mắt nhìn quanh nhà một lượt rồi lặng lẽ ra ghế ngồi. Ngoài trời, mưa tầm tã rơi.

Thành phố đã tỉnh lại, sau một cơn mê dài.

Một cuộc đời bình thường là hạnh phúc

Mẹ tôi bảo: "Giờ ra đường gặp lại ai cũng mừng. Thấy người đó còn khỏe mạnh là vui lắm rồi". Gần hai tháng sau khi TP Hồ Chí Minh hồi phục, dư chấn đại dịch vẫn in hằn. Song, nếu thành phố có phần nào "chậm" lại, thì cuộc đời lại có phần sâu sắc và gắn kết hơn.

Lãnh đạo tỉnh Yên Bái và ngành Y tế chia tay các thành viên Đoàn công tác lên đường hỗ trợ TP Hồ Chí Minh. Ảnh: Việt Dũng - TTXVN

Triệu triệu trái tim chung nhịp đập

TP Hồ Chí Minh đang trong những ngày giãn cách xã hội, khó khăn nhiều bề. Nhưng người dân nơi đây không đơn độc! Con cá ngon ở miệt biển, mớ rau xanh, cân gạo tận miền núi cao… được các tình nguyện viên, bà con chuyển đến vùng tâm dịch, các khu cách ly.

Không gian một thư viện hiện đại Utopia ở Bỉ.

Thư viện hiện đại và "bộ gene" chia sẻ

Biết tôi học nghề thư viện tại Bỉ, bạn bè gốc Việt lắc đầu "tranh nổi việc với dân bản xứ không". Học viên bản xứ cũng băn khoăn: "Bây giờ Google trả lời trong một nốt nhạc, đọc sách online, xem báo miễn phí. Ai vào thư viện?". Giảng viên dạy Nhập môn cười: "Ðấy, còn hỏi, còn băn khoăn nghĩa là còn cần thư viện".

Sau những bất đồng, cả hai lại thấu hiểu nhau hơn, cùng nhau vượt qua những chênh vênh.

Thể dục và "cái duyên không được bỏ lỡ"

10 năm yêu nhau và bảy năm nên duyên vợ chồng, chuyện tình đẹp như mơ giữa Trương Minh Sang - Nguyễn Thu Hà có lẽ luôn là ý niệm đầu tiên lóe lên trong suy nghĩ nhiều người, khi nhắc đến "những cặp đôi vàng" trong làng thể thao Việt Nam.

Cụ Giáo luôn mong muốn truyền thống tốt đẹp của gia đình được các cháu, chắt hiểu và gìn giữ.

Mạch nguồn bất tận

Liệu còn những kết cấu "tứ đại đồng đường" êm ấm, thuận hòa trong xã hội hiện đại đầy phức tạp ngày nay? Cũng chẳng khó để tìm câu trả lời, khi tôi tìm gặp được không ít gia đình có cách "quản trị" độc đáo, giúp các thành viên luôn duy trì được những mạch nguồn gắn kết.

Một người phụ nữ trong xưởng HTX cộng đồng.

Những lựa chọn ở Nậm Đăm

Lý Văn Quang nói đang hoàn thiện thêm một dãy nhà bungalow, ngoài bốn căn bungalow (kiểu nhà một tầng phổ biến ở các khu nghỉ dưỡng) đang hoạt động. Mô hình bungalow của cậu có vẻ hút khách. Cuộc khởi nghiệp của anh chàng người Dao làng văn hoá Nậm Đăm (huyện Quản Bạ, Hà Giang) có vẻ rất khả quan, ngay cả vào cái “năm Covid” đang khiến cả ngành du lịch điêu đứng.

Dzũ Kha, người giữ lửa thơ Hàn.

Thơ còn rực lửa bên đồi Thi nhân

Đã 80 năm thi sĩ Hàn Mặc Tử hết duyên trần (11-1940 - 11-2020). Thời gian ấy tưởng đâu xa lơ xa lắc so với 28 năm vụt sáng chốn dương gian này của người thơ. Nhưng không, như một câu của Hàn Mặc Tử, “một mai kia ở bên khe nước ngọc, với sao sương anh nằm chết như trăng”, thì cảnh ấy, người ấy, thơ ấy, thêm những mối lương duyên tuyệt đẹp của cả đời xưa lẫn đời nay đã thành bất tử. Gió Ghềnh Ráng - Quy Nhơn vẫn lồng lộng thổi, trăng vẫn sáng trong và thơ Hàn còn nguyên lửa ấm.

Chiến sĩ Trần Thành, đoàn viên Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu, ôm bom ba càng, sẵn sàng tiêu diệt xe tăng địch trên đường phố Thủ đô Hà Nội ngày 23-12-1946 - những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, với ý chí "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Ảnh: Nguyễn Bá Khoản (TTXVN)

Nhiếp ảnh dân tộc từ Mùa thu Cách mạng

Cách mạng và các nhà nhiếp ảnh Việt Nam yêu nước tiền bối đã vạch cho nhiếp ảnh Việt Nam một sứ mệnh: Rời cửa hiệu xuống đường đấu tranh, trực tiếp viết sử bằng ống kính của mình. Và họ đã viết rất trung thực, sinh động bằng tất cả trí tuệ, tình cảm… thậm chí bằng máu và nước mắt của cả người cầm máy lẫn người trong ảnh.

Mộ ông Bửu Ðiềm.

Thắp một nén hương, lòng tưởng niệm

Ðiềm Phùng Thị (tên khai sinh Phùng Thị Cúc - sinh năm 1920) là một ngôi sao tỏa sáng của nghệ thuật tạo hình thế giới, đặc biệt về ngành điêu khắc. Bà được bầu làm Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học, Văn học và Nghệ thuật châu Âu, và là một trong hai người châu Á hiếm hoi có tên trong Từ điển Larousse: Nghệ thuật đương đại thế kỷ XX, xuất bản năm 1991.

Dòng Pô Kô, đoạn chảy qua địa phận huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai.

Qua tháng ngày hỏi sông ơi có nhớ...

Không nhớ là năm nào nữa, lâu lắm rồi, cái thời còn bao cấp ấy, một lần ghé Nha Trang, hẹn mấy anh em ngồi với nhau. Hồi ấy ngồi vui lắm. Là cứ hẹn thế còn... tiền đâu mà ngồi thì không biết. Trong một lần mấy anh em văn nghệ ngồi với nhau như thế thì ông nhà thơ Trần Chấn Uy chở tới một ông già khá hom hem và luộm thuộm nữa. Nghĩ chắc người nhà ông Uy ngoài quê mới vào, ổng chở tới chơi luôn. Nhưng khi vào, ổng mới trịnh trọng giới thiệu: “Nhạc sĩ Tố Hải, Đăk Rông mùa xuân về”.

Các con của chị Thanh cùng mẹ làm băng-rôn bằng ba thứ tiếng Hà Lan - Việt Nam - Anh, cảm ơn những người đang ngày đêm nỗ lực cứu chữa bệnh nhân, phục vụ cộng đồng.

Sự sống trong tầm tay

Những cô thợ may gốc Việt bé nhỏ ở Bỉ, Ðức cặm cụi làm khẩu trang miễn phí. Một Việt kiều tại Anh có bệnh lý nền nhắn tin “Tôi không về nước tránh dịch lúc này bởi nhiều lý do, trong đó có lý do nguy cơ lây nhiễm ở sân bay và trên máy bay”. Mỗi người dân đều có thể gìn giữ được sinh mạng quý giá cho nhau bằng những hành động có ý thức, ngay trong tầm tay lúc này.

Có rất nhiều nghịch lý ở câu chuyện tranh Đông Hồ. Ảnh: NGÔ VƯƠNG ANH

Số phận những dòng tranh dân gian Việt

Tranh dân gian Việt Nam có giá trị không? Câu trả lời, dĩ nhiên là có. Nó đã được khẳng định nhiều lần bởi các nhà khoa học, giới mỹ thuật. Nhưng có bao nhiêu người Việt hiện đại còn treo tranh dân gian để trang trí nhà cửa? Tưởng như nghịch lý, nhưng câu trả lời, dĩ nhiên là rất hiếm. Nếu không thể tìm ra phương thức để thích ứng với thị trường, với cuộc sống, thì tình trạng trên, chắc chắn, sẽ còn kéo dài.

Thu hoạch tầm vông.

Tầm vông xanh miền biên ải

Ðã cuối mùa mưa. Biên viễn Tây Nam khét khô mùi nắng. Những cung đường vùng Bảy Núi - từng là căn cứ oanh liệt trong các cuộc chiến đấu vệ quốc của quân và dân An Giang anh hùng, dường như được xoa dịu đôi phần bởi bạt ngàn tầm vông xuất hiện hai bên đường, trước ngõ nhà, đường lên núi... Bất chấp sự khô cằn, tầm vông vẫn vươn cao, thẳng tắp…

“Hoa của Mỷ” chụp năm 2018

Hoa của đá

Hà Giang, mùa hoa tam giác mạch. Khi nắng chớm đông rắc ánh sáng trên những ruộng hoa phớt tím, những đứa trẻ vùng cao đã biết phải tất bật cho một mùa vụ đón khách phương xa. Du lịch thay đổi sâu sắc đất và người nơi đây. Song, không có nhiều em nhỏ biết, chính những con chữ mới đủ sức đưa chúng đến với chân trời dài rộng, bên ngoài những vách đá dựng trập trùng.

Những mùa hoa ở lại...

Những mùa hoa ở lại...

“Hà Nội, thủ đô của hương, của hoa” như cách gọi của nhà văn Băng Sơn, cất giữ cho mình 12 mùa hoa theo vòng quay của năm. Dẫu có những khoảng thời gian thật dài, đâu đó những mùa hoa bị lạc nhịp trong đời sống đô thị, nhưng mạch chảy ký ức chưa bao giờ ngừng nghỉ trong tâm thức người Hà thành. Để rồi đâu đó, vẫn có những thế hệ tiếp nối kể câu chuyện về những mùa hoa.

Đón ánh bình minh đầu tiên trên dải đất hình chữ S.

Đón hừng đông ở cực đông Tổ quốc

Trước đây, mũi Đại Lãnh (Phú Yên) nổi tiếng với danh hiệu “Nơi đón ánh bình minh đầu tiên trên đất liền Việt Nam”. Tuy nhiên, sau khi tiến hành đo đạc chính xác, Cục Di sản văn hóa - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ghi nhận mũi Đôi (Khánh Hòa) ở vị trí 109 độ 27 phút 55 giây kinh độ đông, xa hơn mũi Đại Lãnh (109 độ 27 phút 06 giây), trở thành điểm cực đông của Tổ quốc - niềm khao khát khám phá mới với những người đam mê “xê dịch”.

Một góc B’lao - Bảo Lộc (Lâm Ðồng) hôm nay. Ảnh: Nguyễn Văn Thương

Một thuở B’lao

Đó là những năm từ 1964 đến 1967. Mỗi chiều về phố thị B’lao (Bảo Lộc, Lâm Ðồng) mang mang sương khói, người dân miền sơn cước này đã quen với hình ảnh một người trai trẻ ngậm điếu thuốc cháy dở trên môi, tay đút túi quần bước lững thững như vô định trên phố.

Ông Hồ Văn Lâm (thứ tư, từ trái qua) cùng bà con kiều bào đến thăm Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở tỉnh Udon Thani.

Hướng về nguồn cội

Luôn hướng về quê hương, đất nước, đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, nhiều năm trở lại đây, ông Hồ Văn Lâm sống ở tỉnh Udon Thani (Thái-lan) đã không ngừng phấn đấu, tích cực tham gia hoạt động của cộng đồng, trở thành một kiều bào gương mẫu, một doanh nhân thành đạt…

Mỗi khi có dịp, ông Vũ Văn Cảnh lại lên thắp hương cho đồng đội tại Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên (Hà Giang).

Lan tỏa nghị lực và tinh thần người lính

Trải qua muôn vàn gian khổ trong chiến đấu, nhiều thương binh trở về cuộc sống đời thường với những vết thương còn đau nhức. Song với phẩm chất cao quý của Bộ đội Cụ Hồ, những người lính ấy đã khắc phục khó khăn, sống tiếp phần đời sáng đẹp, làm chỗ dựa cho con cháu, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn hơn.

Những cánh ruộng bậc thang tạo nên những cung bậc mềm mại cho cảnh sắc. Ảnh: ĐỖ MỸ LY

Trở lại Pù Luông

Pù Luông đây ư?

Tôi chẳng còn nhận ra những nét thân quen nào nữa. Ngày trước đến các bản phải len chân trên những lối mòn với cây cối rậm rạp, gặp khi mưa gió thì trơn lầy, không cẩn thận dễ sa xuống khe suối. Bây giờ đường trải nhựa, xe ô-tô chạy đến tận các bản, điện đã đến từng nhà, chỉ hai thứ ấy thôi đã mang lại sự thay đổi cho vùng đất này. Tôi ngẩn ngơ trước một Pù Luông mới, để mặc cho ký ức ùa về…

Trong 25 m2 nhỏ bé ấy, có tất cả những vật dụng cần thiết được chế tạo thân thiện với môi trường.

Hành trình sống "Không rác thải"!

Rác thải, đặc biệt là rác thải nhựa được nhận diện là thủ phạm gây nên những tổn thương sâu sắc đối với môi trường sống chung quanh ta. Ðang có những con người tiên phong từ bỏ sự tiện lợi của các loại bao bì nhựa, ni-lông để lựa chọn và theo đuổi cuộc sống không rác thải (Zero Waste). Cô chủ nhỏ của Go Eco HaNoi là một trong số đó.

Ngày một nhiều du khách muốn đến với làng cổ Phước Tích. Ảnh: NGUYỄN KHOA

Phước Tích trong giấc mơ trưa

Nắng chính ngọ chảy tràn xuống dòng Ô Lâu xanh ngắt, hong óng lên sắc nâu của mái ngói cổ cong cong theo năm tháng. Không tiếng gà gáy trưa, Phước Tích (huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế) như chìm vào cõi riêng. Bỏ quên câu hỏi: Đến bao giờ ngôi làng cổ thứ hai của Việt Nam được đánh thức để tạo nên điểm nhấn cho du lịch của đất Thần Kinh?

Họa sĩ Tô Ngọc Thành đam mê, giàu cá tính sáng tạo.

Tươi nguyên miền ký ức

Dường như tuổi càng cao càng hối thúc họa sĩ Tô Ngọc Thành (ông tuổi Thìn - 1940) trở đi trở lại với vùng rẻo cao biên cương phía bắc của Tổ quốc yêu thương. Chẳng quản đường sá xa xôi, thời tiết khắc nghiệt cùng thiên tai rình rập, sau những chuyến đi, ông đem về Thủ đô Hà Nội trưng bày liên tiếp những cung bậc sắc mầu về phong cảnh và con người vùng đại ngàn trùng điệp, trong đó có những bức vẽ trẻ em rất ấn tượng.

Biểu diễn Fado trong Bảo tàng thành phố Faro.

Nghe Fado ở Faro

Giữa các phố nhỏ quanh co thơm mùi bánh Nata rắc bột quế và trầm ấm ánh đèn dầu vàng ở quận Alfama của Thủ đô Lisbon (Bồ Đào Nha), chữ Fado được viết bằng phấn trên bảng nhiều quán ăn như thực đơn chính: “Ở đây có Fado”, “Fado bắt đầu lúc 20 giờ”. Âm nhạc Fado của người Bồ Đào Nha - di sản văn hóa nhân loại đang có một đời sống thuận tự nhiên đến cảm động.

Chợ phiên San Thàng mang đậm âm sắc của một phiên chợ vùng cao.

Hấp dẫn chợ phiên San Thàng

Nằm ngay đầu vào của thành phố Lai Châu, chợ phiên San Thàng là một phiên chợ vùng cao khá lý thú. Ở đó có đầy đủ, đa dạng các sắc mầu văn hóa của bà con đồng bào các dân tộc bản địa. Ðến chợ vừa có thể mua sắm, vừa có thể ăn, chơi; đồng thời có thể khám phá được cái riêng, độc đáo của vùng đất, con người Lai Châu.

Các bác sĩ phẫu thuật ghép gan cho người bệnh.

Thêm cơ hội sống cho người bệnh hiểm nghèo

Có mấy ai sẵn sàng hy sinh phần tốt đẹp nhất cho người khác, đặc biệt là cho đi một phần cơ thể của mình? Vậy mà, tại các bệnh viện (BV) lớn ở TP Hồ Chí Minh, rất nhiều những người lạ có, thân quen có… đã sẵn sàng hiến một phần cơ thể cho người bệnh (NB) đang trong cơn nguy kịch; hay hiến cả bản thân khi nằm xuống nhằm giúp người còn sống.

Chị Lê Thị Trúc Loan cùng đồng nghiệp trong dưỡng đường cổ vũ đội bóng đá Bỉ.

Nơi cần cả yêu thương & sức lực

Tôi tình cờ gặp Lê Thị Trúc Loan trên một chuyến xe buýt. Loan là người gốc Việt đầu tiên nhận bằng Zorgkundigen của trường Solidariteit Voor Het Gezin tại Brussel khóa 234 (trường kết hợp đào tạo nghề cùng VDAB - Trung tâm giáo dục lao động và dạy nghề của chính quyền vùng Flanders, Bỉ). Khóa học ban đầu thu hút hơn trăm học viên, tốt nghiệp chỉ còn hơn chục. Một nghề không đơn giản chỉ cần chăm chỉ, mạnh tay khỏe chân.