Số phận những dòng tranh dân gian Việt

Tranh dân gian Việt Nam có giá trị không? Câu trả lời, dĩ nhiên là có. Nó đã được khẳng định nhiều lần bởi các nhà khoa học, giới mỹ thuật. Nhưng có bao nhiêu người Việt hiện đại còn treo tranh dân gian để trang trí nhà cửa? Tưởng như nghịch lý, nhưng câu trả lời, dĩ nhiên là rất hiếm. Nếu không thể tìm ra phương thức để thích ứng với thị trường, với cuộc sống, thì tình trạng trên, chắc chắn, sẽ còn kéo dài.

Có rất nhiều nghịch lý ở câu chuyện tranh Đông Hồ. Ảnh: NGÔ VƯƠNG ANH
Có rất nhiều nghịch lý ở câu chuyện tranh Đông Hồ. Ảnh: NGÔ VƯƠNG ANH

1. Làng Đông Hồ vẫn nằm nghiêng mình bên dòng sông Đuống như thuở nào. Có điều, đã có quá nhiều đổi thay so với cái ngày thi sĩ Hoàng Cầm viết những câu thơ “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/ Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”.

Có rất nhiều nghịch lý ở câu chuyện tranh Đông Hồ. Làng Đông Hồ không còn nhiều người làm tranh. Nhưng các hộ gia đình còn giữ nghề đều… “sống khỏe”. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế có một xưởng tranh khá quy mô, nơi khách có thể vừa xem các quy trình sản xuất, vừa mua sản phẩm làm quà lưu niệm. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam, người nổi tiếng một thời, nay đã về với tiên tổ, nhưng các con trai ông vẫn kế nghiệp, tiếp tục đưa tranh ra thị trường. Thật khó có thể liệt kê hết những bài viết ca ngợi vẻ đẹp của tranh Đông Hồ, từ chủ đề tranh, cho đến nét độc đáo của kỹ thuật... Dẫu vậy, bây giờ, thật khó tìm được gia đình người Việt nào… treo tranh Đông Hồ.

Miền bắc xưa kia có ba dòng tranh dân gian chính, là: Hàng Trống, Kim Hoàng (cùng ở Hà Nội) và Đông Hồ (Bắc Ninh). Trải qua thời gian, mỗi dòng tranh đang có số phận khác nhau. Tranh Hàng Trống hiện chỉ còn một hộ gia đình làm, là nghệ nhân Lê Đình Nghiên. Tranh Kim Hoàng thất truyền bảy mươi năm, chỉ mới được khôi phục ba, bốn năm nay bởi một nhóm những người đam mê tranh cổ, chuyên gia, nghệ sĩ. Họ lại không phải người Kim Hoàng. Bản thân người làng Kim Hoàng hầu như đã quên nghề. Đông Hồ lại là một câu chuyện khác. Trong những xoay vần của cuộc sống, kể cả những năm khó khăn nhất, khi nhiều làng nghề mai một, tranh Đông Hồ cũng chưa bao giờ bị đứt đoạn hẳn. Ngay cả thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, đất nước gặp nhiều khó khăn thì người làng Mái vẫn sản xuất tranh đều đều. Đông Hồ ra nhiều mẫu mới, phù hợp với bối cảnh lịch sử bấy giờ như Tấm áo mẹ vá năm xưa, Đổi công hợp tác, Phụ nữ ba đảm đang hay bức Không cho chúng nó thoát (đề tài về trận Điện Biên Phủ trên không)… Sau này, tranh Đông Hồ còn được làm để xuất khẩu.

Với lịch sử như thế, muốn tìm hiểu về tranh dân gian một cách tổng thể, trong chính không gian “sống” của di sản này, chỉ còn cách về với làng tranh bên sông Đuống. Nơi đây, vẫn còn nhiều nghệ nhân làm tranh nhất. Ngoài tìm hiểu quy trình làm tranh, xem tranh, người ta còn được ngắm nhìn khung cảnh làng cổ, giếng nước, mái đình, triền đê xanh ngợp... Bởi thế, những hộ gia đình còn làm tranh ở Đông Hồ luôn được đón tiếp những đoàn khách du lịch. Đến thăm làng nghề truyền thống thì mua sản phẩm của làng nghề làm kỷ niệm. Tất nhiên, sản phẩm đó chủ yếu là tranh.

Đề tài thường mang ý nghĩa chúc phúc, chúc thành đạt, đông con, nhiều cháu... Những bức tranh cũng khắc họa cuộc sống của làng quê Việt Nam. Nhưng mua về làm kỷ niệm với mua về để treo tranh là hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau. Không ít người bỏ vài trăm nghìn đồng mua cả bộ chục bức tranh làng Hồ về rồi cảm thấy... khó xử. Về kỹ thuật, tranh Đông Hồ chủ yếu khổ nhỏ, dùng bản khắc gỗ in hàng loạt. Người thạo nghề chỉ một buổi là in được... cả đống tranh. Điều đó giúp tranh Đông Hồ giá rẻ, phục vụ cho nhu cầu của phần lớn hộ nông dân xưa. Theo truyền thống, người chơi tranh Tết xưa mua tranh, về dán thẳng lên vách, hay lên cửa. Một thời gian sau thì bóc bỏ đi. Cuộc sống ngày nay đã đổi thay. Không gian sống cũng khác. Kinh tế đã khá giả hơn rất nhiều. Không dễ để thuyết phục khách hàng treo những bức tranh in hàng loạt, với giá vài trăm nghìn đồng mua được cả chục, với khổ tranh không thích hợp để trang trí cho không gian sống của mình, cho dù nó có ý nghĩa sâu xa và mang “màu dân tộc”.

Các hộ làm tranh Đông Hồ “sống khỏe”, theo một cách mà hẳn không phải ai cũng mong muốn.

2. Tranh Hàng Trống bây giờ không ở phố Hàng Trống. Gia đình làm tranh cuối cùng, nghệ nhân Lê Đình Nghiên giờ chuyển đến sống ở phố Cửa Đông. Nhưng khác với thời kỳ hiu hắt trước kia, nghệ nhân Lê Đình Nghiên lúc nào cũng tất bật. Cùng phụ giúp ông là con trai - nghệ nhân trẻ Lê Hoàn. Vậy mà vẫn không kịp nhu cầu của khách. Vẽ xong bức nào, có người đến lấy ngay bức đó. Thậm chí có lúc đến nhà nghệ nhân mà người ta... không được ngắm tranh.

Khác với tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống bây giờ không hề rẻ. Bức có giá thấp nhất cũng tính bằng tiền triệu. Vậy mà thị trường vẫn “hấp thụ”, tốt đến mức đã có không ít người mày mò tự nghiên cứu và vẽ tranh Hàng Trống để bán. Sở dĩ có câu chuyện ấy là vì tranh Hàng Trống có khổ lớn. Theo Phó Giáo sư Phan Ngọc Khuê, người có nhiều công trình nghiên cứu về tranh Hàng Trống, tranh Hàng Trống chủ yếu phục vụ cho nhu cầu người dân phố thị – nơi mà không gian sống có “nhà cao cửa rộng” hơn, nên người ta làm tranh khổ lớn. Chính điều này khiến nó rất dễ phù hợp với không gian của những phòng khách sang trọng hiện thời. Tranh Hàng Trống có tính độc bản cao, không phải tranh in loạt. Các mẫu tranh chỉ in những nét chính, còn lại, nghệ nhân phải mất rất nhiều công sức để vẽ, tô mầu. Điều đó khiến người mua tranh Hàng Trống không chỉ để chơi, mà còn để sưu tầm. Tranh Hàng Trống để lâu năm, càng có giá. Nếu vẽ bằng các mầu làm từ sa khoáng, cùng với thời gian, mầu tranh có độ sâu hơn.

Nỗi lo tranh Hàng Trống thất truyền, có lẽ, đã bắt đầu thành lỗi thời. Ngay cả khi nghệ nhân Lê Đình Nghiên không truyền dạy, thì vẫn có người nghiên cứu để vẽ đúng theo phong cách Hàng Trống. Hoa văn, họa tiết, cách phối mầu của tranh Hàng Trống rất độc đáo, giàu tính hiện đại nên đang được khai thác ứng dụng trong nhiều sản phẩm mỹ nghệ, hoặc bao bì sản phẩm cho cuộc sống đương đại.

3. Tranh Kim Hoàng mới chính thức khôi phục đầu năm 2016, với những mẫu tranh đầu tiên. Từ đó đến nay, cùng với khôi phục những mẫu cổ truyền, “làm mới” một số mẫu tranh cổ, năm nào, Dự án Khôi phục tranh Kim Hoàng do Giám đốc Bảo tàng Gốm sứ Hà Nội Nguyễn Thị Thu Hòa làm chủ nhiệm cũng cho ra vài mẫu mới. Năm Tuất, Dự án có mẫu tranh nghê Việt. Đi vào chi tiết hơn, đó là loại khuyển nghê, linh vật được hình tượng hóa từ con chó, vốn gần gũi, thân thuộc với người Việt. Đón Xuân Canh Tý, nhóm làm tranh Kim Hoàng cho ra mẫu tranh chuột - với chủ đề “ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau”. Hình ảnh con chuột được lấy từ cảm hứng tranh dân gian truyền thống. Và chủ đề “ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau” thể hiện khát vọng đỗ đạt của người xưa. Chủ đề này cũng gần giống với tích “Vinh quy bái tổ” vốn phổ biến trong tranh dân gian. Đến giờ, Dự án Khôi phục tranh Kim Hoàng đã cho ra đời được 12 mẫu. Tất cả đều được sáng tạo dựa trên phong cách tranh Kim Hoàng và từ vốn mỹ thuật dân gian. Các mẫu đều được thị trường đón nhận, dù giá không hề rẻ.

Chủ nhiệm Dự án Khôi phục tranh Kim Hoàng Nguyễn Thị Thu Hòa cho biết, thị trường tranh dân gian là thị trường hẹp. Muốn nghệ nhân sống được, phải hướng tới tranh cao cấp. Bởi thế, trên nền của truyền thống, nhóm thực hiện Dự án đã cho ra đời những mẫu tranh cao cấp, đáp ứng nhu cầu trang trí trong đời sống đương đại.

***

Đã có dự án và nguồn tài chính không nhỏ đổ vào việc khôi phục lại nghề làm tranh Đông Hồ. Song, tranh Đông Hồ đang trên hành trình làm hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.

Rõ ràng, loại hình di sản nghề truyền thống, trong đó có nghề tranh dân gian, phải có được thị trường nếu muốn tồn tại. Nghề tranh, chỉ bền vững khi sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của thị trường - khi chính người Việt chơi tranh. Bảo tồn, phát huy giá trị di sản, tính một cách rạch ròi, trước hết, là gìn giữ những giá trị cũ, song song với đem lại cho chúng sức sống mới để thích ứng. Mỗi dòng tranh, một đặc điểm. Và “đặc điểm” ấy đem đến những số phận khác nhau. Những số phận ấy, cho ta những gợi ý, để tìm ra phương thức giúp cho những “màu dân tộc” ấy bảo tồn được sức sống trong đời sống đương đại.

Có thể bạn quan tâm

Chưa bao giờ B. lại thấy nhà mình tràn ngập hoa cúc vàng dịp 20/11 như năm nay.

Chuyện của những đóa cúc vàng

"Năm nào, đến 20/11, ba mẹ em cũng mở cửa từ sáng tới chiều không kịp đóng vì cứ 15-20 phút lại có tốp trò cũ đến thăm. Hoa hồng nhiều lắm. Ba mẹ phải chuẩn bị sẵn hai cái thùng to dưới bếp để ngâm nước, sợ héo. Năm nay, nhà toàn hoa cúc vàng, nhìn lạ quá", N.Đ.B. (TP Thủ Đức) đưa mắt nhìn quanh nhà một lượt rồi lặng lẽ ra ghế ngồi. Ngoài trời, mưa tầm tã rơi.

Thành phố đã tỉnh lại, sau một cơn mê dài.

Một cuộc đời bình thường là hạnh phúc

Mẹ tôi bảo: "Giờ ra đường gặp lại ai cũng mừng. Thấy người đó còn khỏe mạnh là vui lắm rồi". Gần hai tháng sau khi TP Hồ Chí Minh hồi phục, dư chấn đại dịch vẫn in hằn. Song, nếu thành phố có phần nào "chậm" lại, thì cuộc đời lại có phần sâu sắc và gắn kết hơn.

Lãnh đạo tỉnh Yên Bái và ngành Y tế chia tay các thành viên Đoàn công tác lên đường hỗ trợ TP Hồ Chí Minh. Ảnh: Việt Dũng - TTXVN

Triệu triệu trái tim chung nhịp đập

TP Hồ Chí Minh đang trong những ngày giãn cách xã hội, khó khăn nhiều bề. Nhưng người dân nơi đây không đơn độc! Con cá ngon ở miệt biển, mớ rau xanh, cân gạo tận miền núi cao… được các tình nguyện viên, bà con chuyển đến vùng tâm dịch, các khu cách ly.

Không gian một thư viện hiện đại Utopia ở Bỉ.

Thư viện hiện đại và "bộ gene" chia sẻ

Biết tôi học nghề thư viện tại Bỉ, bạn bè gốc Việt lắc đầu "tranh nổi việc với dân bản xứ không". Học viên bản xứ cũng băn khoăn: "Bây giờ Google trả lời trong một nốt nhạc, đọc sách online, xem báo miễn phí. Ai vào thư viện?". Giảng viên dạy Nhập môn cười: "Ðấy, còn hỏi, còn băn khoăn nghĩa là còn cần thư viện".

Sau những bất đồng, cả hai lại thấu hiểu nhau hơn, cùng nhau vượt qua những chênh vênh.

Thể dục và "cái duyên không được bỏ lỡ"

10 năm yêu nhau và bảy năm nên duyên vợ chồng, chuyện tình đẹp như mơ giữa Trương Minh Sang - Nguyễn Thu Hà có lẽ luôn là ý niệm đầu tiên lóe lên trong suy nghĩ nhiều người, khi nhắc đến "những cặp đôi vàng" trong làng thể thao Việt Nam.

Cụ Giáo luôn mong muốn truyền thống tốt đẹp của gia đình được các cháu, chắt hiểu và gìn giữ.

Mạch nguồn bất tận

Liệu còn những kết cấu "tứ đại đồng đường" êm ấm, thuận hòa trong xã hội hiện đại đầy phức tạp ngày nay? Cũng chẳng khó để tìm câu trả lời, khi tôi tìm gặp được không ít gia đình có cách "quản trị" độc đáo, giúp các thành viên luôn duy trì được những mạch nguồn gắn kết.

Một người phụ nữ trong xưởng HTX cộng đồng.

Những lựa chọn ở Nậm Đăm

Lý Văn Quang nói đang hoàn thiện thêm một dãy nhà bungalow, ngoài bốn căn bungalow (kiểu nhà một tầng phổ biến ở các khu nghỉ dưỡng) đang hoạt động. Mô hình bungalow của cậu có vẻ hút khách. Cuộc khởi nghiệp của anh chàng người Dao làng văn hoá Nậm Đăm (huyện Quản Bạ, Hà Giang) có vẻ rất khả quan, ngay cả vào cái “năm Covid” đang khiến cả ngành du lịch điêu đứng.

Dzũ Kha, người giữ lửa thơ Hàn.

Thơ còn rực lửa bên đồi Thi nhân

Đã 80 năm thi sĩ Hàn Mặc Tử hết duyên trần (11-1940 - 11-2020). Thời gian ấy tưởng đâu xa lơ xa lắc so với 28 năm vụt sáng chốn dương gian này của người thơ. Nhưng không, như một câu của Hàn Mặc Tử, “một mai kia ở bên khe nước ngọc, với sao sương anh nằm chết như trăng”, thì cảnh ấy, người ấy, thơ ấy, thêm những mối lương duyên tuyệt đẹp của cả đời xưa lẫn đời nay đã thành bất tử. Gió Ghềnh Ráng - Quy Nhơn vẫn lồng lộng thổi, trăng vẫn sáng trong và thơ Hàn còn nguyên lửa ấm.

Chiến sĩ Trần Thành, đoàn viên Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu, ôm bom ba càng, sẵn sàng tiêu diệt xe tăng địch trên đường phố Thủ đô Hà Nội ngày 23-12-1946 - những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, với ý chí "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Ảnh: Nguyễn Bá Khoản (TTXVN)

Nhiếp ảnh dân tộc từ Mùa thu Cách mạng

Cách mạng và các nhà nhiếp ảnh Việt Nam yêu nước tiền bối đã vạch cho nhiếp ảnh Việt Nam một sứ mệnh: Rời cửa hiệu xuống đường đấu tranh, trực tiếp viết sử bằng ống kính của mình. Và họ đã viết rất trung thực, sinh động bằng tất cả trí tuệ, tình cảm… thậm chí bằng máu và nước mắt của cả người cầm máy lẫn người trong ảnh.

Diều sáo phiêu du

Diều sáo phiêu du

Bá Dương Nội, xã Hồng Hà (Đan Phượng, Hà Nội) không chỉ nổi tiếng với thương hiệu làng của những đô vật nổi tiếng, mà còn được biết đến với thú chơi diều độc đáo đã trở thành nét văn hóa. Điều thú vị, cũng bắt đầu từ cánh diều ấy mà nghệ nhân ưu tú (NNƯT) Nguyễn Hữu Kiêm (bên phải) đã góp phần quảng bá đất nước, con người Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Mộ ông Bửu Ðiềm.

Thắp một nén hương, lòng tưởng niệm

Ðiềm Phùng Thị (tên khai sinh Phùng Thị Cúc - sinh năm 1920) là một ngôi sao tỏa sáng của nghệ thuật tạo hình thế giới, đặc biệt về ngành điêu khắc. Bà được bầu làm Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học, Văn học và Nghệ thuật châu Âu, và là một trong hai người châu Á hiếm hoi có tên trong Từ điển Larousse: Nghệ thuật đương đại thế kỷ XX, xuất bản năm 1991.

Dòng Pô Kô, đoạn chảy qua địa phận huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai.

Qua tháng ngày hỏi sông ơi có nhớ...

Không nhớ là năm nào nữa, lâu lắm rồi, cái thời còn bao cấp ấy, một lần ghé Nha Trang, hẹn mấy anh em ngồi với nhau. Hồi ấy ngồi vui lắm. Là cứ hẹn thế còn... tiền đâu mà ngồi thì không biết. Trong một lần mấy anh em văn nghệ ngồi với nhau như thế thì ông nhà thơ Trần Chấn Uy chở tới một ông già khá hom hem và luộm thuộm nữa. Nghĩ chắc người nhà ông Uy ngoài quê mới vào, ổng chở tới chơi luôn. Nhưng khi vào, ổng mới trịnh trọng giới thiệu: “Nhạc sĩ Tố Hải, Đăk Rông mùa xuân về”.

Các con của chị Thanh cùng mẹ làm băng-rôn bằng ba thứ tiếng Hà Lan - Việt Nam - Anh, cảm ơn những người đang ngày đêm nỗ lực cứu chữa bệnh nhân, phục vụ cộng đồng.

Sự sống trong tầm tay

Những cô thợ may gốc Việt bé nhỏ ở Bỉ, Ðức cặm cụi làm khẩu trang miễn phí. Một Việt kiều tại Anh có bệnh lý nền nhắn tin “Tôi không về nước tránh dịch lúc này bởi nhiều lý do, trong đó có lý do nguy cơ lây nhiễm ở sân bay và trên máy bay”. Mỗi người dân đều có thể gìn giữ được sinh mạng quý giá cho nhau bằng những hành động có ý thức, ngay trong tầm tay lúc này.

Thu hoạch tầm vông.

Tầm vông xanh miền biên ải

Ðã cuối mùa mưa. Biên viễn Tây Nam khét khô mùi nắng. Những cung đường vùng Bảy Núi - từng là căn cứ oanh liệt trong các cuộc chiến đấu vệ quốc của quân và dân An Giang anh hùng, dường như được xoa dịu đôi phần bởi bạt ngàn tầm vông xuất hiện hai bên đường, trước ngõ nhà, đường lên núi... Bất chấp sự khô cằn, tầm vông vẫn vươn cao, thẳng tắp…

“Hoa của Mỷ” chụp năm 2018

Hoa của đá

Hà Giang, mùa hoa tam giác mạch. Khi nắng chớm đông rắc ánh sáng trên những ruộng hoa phớt tím, những đứa trẻ vùng cao đã biết phải tất bật cho một mùa vụ đón khách phương xa. Du lịch thay đổi sâu sắc đất và người nơi đây. Song, không có nhiều em nhỏ biết, chính những con chữ mới đủ sức đưa chúng đến với chân trời dài rộng, bên ngoài những vách đá dựng trập trùng.

Những mùa hoa ở lại...

Những mùa hoa ở lại...

“Hà Nội, thủ đô của hương, của hoa” như cách gọi của nhà văn Băng Sơn, cất giữ cho mình 12 mùa hoa theo vòng quay của năm. Dẫu có những khoảng thời gian thật dài, đâu đó những mùa hoa bị lạc nhịp trong đời sống đô thị, nhưng mạch chảy ký ức chưa bao giờ ngừng nghỉ trong tâm thức người Hà thành. Để rồi đâu đó, vẫn có những thế hệ tiếp nối kể câu chuyện về những mùa hoa.

Đón ánh bình minh đầu tiên trên dải đất hình chữ S.

Đón hừng đông ở cực đông Tổ quốc

Trước đây, mũi Đại Lãnh (Phú Yên) nổi tiếng với danh hiệu “Nơi đón ánh bình minh đầu tiên trên đất liền Việt Nam”. Tuy nhiên, sau khi tiến hành đo đạc chính xác, Cục Di sản văn hóa - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ghi nhận mũi Đôi (Khánh Hòa) ở vị trí 109 độ 27 phút 55 giây kinh độ đông, xa hơn mũi Đại Lãnh (109 độ 27 phút 06 giây), trở thành điểm cực đông của Tổ quốc - niềm khao khát khám phá mới với những người đam mê “xê dịch”.

Một góc B’lao - Bảo Lộc (Lâm Ðồng) hôm nay. Ảnh: Nguyễn Văn Thương

Một thuở B’lao

Đó là những năm từ 1964 đến 1967. Mỗi chiều về phố thị B’lao (Bảo Lộc, Lâm Ðồng) mang mang sương khói, người dân miền sơn cước này đã quen với hình ảnh một người trai trẻ ngậm điếu thuốc cháy dở trên môi, tay đút túi quần bước lững thững như vô định trên phố.

Ông Hồ Văn Lâm (thứ tư, từ trái qua) cùng bà con kiều bào đến thăm Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở tỉnh Udon Thani.

Hướng về nguồn cội

Luôn hướng về quê hương, đất nước, đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, nhiều năm trở lại đây, ông Hồ Văn Lâm sống ở tỉnh Udon Thani (Thái-lan) đã không ngừng phấn đấu, tích cực tham gia hoạt động của cộng đồng, trở thành một kiều bào gương mẫu, một doanh nhân thành đạt…

Mỗi khi có dịp, ông Vũ Văn Cảnh lại lên thắp hương cho đồng đội tại Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên (Hà Giang).

Lan tỏa nghị lực và tinh thần người lính

Trải qua muôn vàn gian khổ trong chiến đấu, nhiều thương binh trở về cuộc sống đời thường với những vết thương còn đau nhức. Song với phẩm chất cao quý của Bộ đội Cụ Hồ, những người lính ấy đã khắc phục khó khăn, sống tiếp phần đời sáng đẹp, làm chỗ dựa cho con cháu, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn hơn.

Những cánh ruộng bậc thang tạo nên những cung bậc mềm mại cho cảnh sắc. Ảnh: ĐỖ MỸ LY

Trở lại Pù Luông

Pù Luông đây ư?

Tôi chẳng còn nhận ra những nét thân quen nào nữa. Ngày trước đến các bản phải len chân trên những lối mòn với cây cối rậm rạp, gặp khi mưa gió thì trơn lầy, không cẩn thận dễ sa xuống khe suối. Bây giờ đường trải nhựa, xe ô-tô chạy đến tận các bản, điện đã đến từng nhà, chỉ hai thứ ấy thôi đã mang lại sự thay đổi cho vùng đất này. Tôi ngẩn ngơ trước một Pù Luông mới, để mặc cho ký ức ùa về…

Trong 25 m2 nhỏ bé ấy, có tất cả những vật dụng cần thiết được chế tạo thân thiện với môi trường.

Hành trình sống "Không rác thải"!

Rác thải, đặc biệt là rác thải nhựa được nhận diện là thủ phạm gây nên những tổn thương sâu sắc đối với môi trường sống chung quanh ta. Ðang có những con người tiên phong từ bỏ sự tiện lợi của các loại bao bì nhựa, ni-lông để lựa chọn và theo đuổi cuộc sống không rác thải (Zero Waste). Cô chủ nhỏ của Go Eco HaNoi là một trong số đó.

Ngày một nhiều du khách muốn đến với làng cổ Phước Tích. Ảnh: NGUYỄN KHOA

Phước Tích trong giấc mơ trưa

Nắng chính ngọ chảy tràn xuống dòng Ô Lâu xanh ngắt, hong óng lên sắc nâu của mái ngói cổ cong cong theo năm tháng. Không tiếng gà gáy trưa, Phước Tích (huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế) như chìm vào cõi riêng. Bỏ quên câu hỏi: Đến bao giờ ngôi làng cổ thứ hai của Việt Nam được đánh thức để tạo nên điểm nhấn cho du lịch của đất Thần Kinh?

Họa sĩ Tô Ngọc Thành đam mê, giàu cá tính sáng tạo.

Tươi nguyên miền ký ức

Dường như tuổi càng cao càng hối thúc họa sĩ Tô Ngọc Thành (ông tuổi Thìn - 1940) trở đi trở lại với vùng rẻo cao biên cương phía bắc của Tổ quốc yêu thương. Chẳng quản đường sá xa xôi, thời tiết khắc nghiệt cùng thiên tai rình rập, sau những chuyến đi, ông đem về Thủ đô Hà Nội trưng bày liên tiếp những cung bậc sắc mầu về phong cảnh và con người vùng đại ngàn trùng điệp, trong đó có những bức vẽ trẻ em rất ấn tượng.

Biểu diễn Fado trong Bảo tàng thành phố Faro.

Nghe Fado ở Faro

Giữa các phố nhỏ quanh co thơm mùi bánh Nata rắc bột quế và trầm ấm ánh đèn dầu vàng ở quận Alfama của Thủ đô Lisbon (Bồ Đào Nha), chữ Fado được viết bằng phấn trên bảng nhiều quán ăn như thực đơn chính: “Ở đây có Fado”, “Fado bắt đầu lúc 20 giờ”. Âm nhạc Fado của người Bồ Đào Nha - di sản văn hóa nhân loại đang có một đời sống thuận tự nhiên đến cảm động.

Chợ phiên San Thàng mang đậm âm sắc của một phiên chợ vùng cao.

Hấp dẫn chợ phiên San Thàng

Nằm ngay đầu vào của thành phố Lai Châu, chợ phiên San Thàng là một phiên chợ vùng cao khá lý thú. Ở đó có đầy đủ, đa dạng các sắc mầu văn hóa của bà con đồng bào các dân tộc bản địa. Ðến chợ vừa có thể mua sắm, vừa có thể ăn, chơi; đồng thời có thể khám phá được cái riêng, độc đáo của vùng đất, con người Lai Châu.

Các bác sĩ phẫu thuật ghép gan cho người bệnh.

Thêm cơ hội sống cho người bệnh hiểm nghèo

Có mấy ai sẵn sàng hy sinh phần tốt đẹp nhất cho người khác, đặc biệt là cho đi một phần cơ thể của mình? Vậy mà, tại các bệnh viện (BV) lớn ở TP Hồ Chí Minh, rất nhiều những người lạ có, thân quen có… đã sẵn sàng hiến một phần cơ thể cho người bệnh (NB) đang trong cơn nguy kịch; hay hiến cả bản thân khi nằm xuống nhằm giúp người còn sống.

Chị Lê Thị Trúc Loan cùng đồng nghiệp trong dưỡng đường cổ vũ đội bóng đá Bỉ.

Nơi cần cả yêu thương & sức lực

Tôi tình cờ gặp Lê Thị Trúc Loan trên một chuyến xe buýt. Loan là người gốc Việt đầu tiên nhận bằng Zorgkundigen của trường Solidariteit Voor Het Gezin tại Brussel khóa 234 (trường kết hợp đào tạo nghề cùng VDAB - Trung tâm giáo dục lao động và dạy nghề của chính quyền vùng Flanders, Bỉ). Khóa học ban đầu thu hút hơn trăm học viên, tốt nghiệp chỉ còn hơn chục. Một nghề không đơn giản chỉ cần chăm chỉ, mạnh tay khỏe chân.