Hội thảo "Nhìn lại 50 năm văn học viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước"

Ngày 9/4, tại Thư viện Quân đội (Hà Nội), Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề "Nhìn lại văn học viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sau 50 năm giải phóng miền nam, thống nhất đất nước".
Hội thảo thu hút đông đảo văn nghệ sĩ, nhà nghiên cứu lý luận và quản lý.
Hội thảo thu hút đông đảo văn nghệ sĩ, nhà nghiên cứu lý luận và quản lý.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025), hội thảo khoa học được Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức nhằm góp phần nhìn nhận lại chặng đường văn học đã đồng hành cùng cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, đồng thời đánh giá thành tựu, tìm tòi, sáng tạo của các tác phẩm văn học trong giai đoạn này.

Đại tá, nhà thơ Nguyễn Bình Phương phát biểu khai mạc hội thảo.

Đại tá, nhà thơ Nguyễn Bình Phương phát biểu khai mạc hội thảo.

Phát biểu khai mạc hội thảo, Đại tá, nhà thơ Nguyễn Bình Phương, Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhấn mạnh: Phạm vi chủ đề hội thảo khá rộng, đó là sự nhìn nhận về văn học trong suốt dọc dài của một cuộc chiến tranh. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những cuộc chiến khốc liệt nhất của người Việt và văn học đã tham gia tích cực, ở nhiều giai đoạn là vũ khí vô cùng quan trọng.

Những tác phẩm kịp thời ra đời để động viên, khích lệ, gia cố lòng quả cảm. Trong đời sống hòa bình, văn học tiếp tục khắc họa vẻ đẹp của đời sống, tâm hồn con người Việt; "khâu vá", xoa dịu phần nào vết thương chiến tranh; đồng thời góp phần giáo dục giá trị truyền thống cho thế hệ tương lai.

Từ hiện thực được chưng cất qua văn học, chúng ta có cơ hội nhìn nhận về những tình thế và cách ứng xử trong mọi tình thế của người Việt với tinh thần: Người Việt chấp nhận hy sinh, đổ máu và chịu đựng. Như vậy để càng thấy rõ hơn khát vọng thống nhất, hòa bình quan trọng ra sao. Đây là ý nghĩa sâu xa nhất mà hội thảo có được. Đề tài về kháng chiến chống Mỹ vẫn luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt, thể hiện qua những cách đào sâu, phát hiện mới.

Đại tá, nhà thơ Nguyễn Bình Phương, Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội

Trong đề dẫn hội thảo, Thượng tá, Tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa, Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, khẳng định: Là một "binh chủng" đặc biệt, văn học đã tiên phong đứng trên tuyến đầu chống Mỹ. Hàng trăm nhà văn, nhà thơ xung phong vào chiến trường vừa cầm súng, vừa cầm bút cống hiến trọn vẹn tuổi xuân và tài năng văn chương cho Tổ quốc. Nhiều người trong số họ đã ngã xuống với tư thế một anh hùng.

Văn học góp phần khích lệ, cổ vũ cả nước ta đoàn kết thành một khối "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai" (Tố Hữu).

Đoàn Chủ tịch hội thảo khoa học.

Đoàn Chủ tịch hội thảo khoa học.

Không khí hừng hực "lên đường" ngoài cuộc sống phả vào văn chương, kết lại và tỏa sáng thành những hình tượng sử thi mang tính biểu tượng của lòng yêu nước ở những tác phẩm trong vắt một lý tưởng cách mạng, với "Người mẹ cầm súng" của Nguyễn Thi, "Hòn Đất" của Anh Đức, "Gia đình má Bảy" của Phan Tứ, "Dấu chân người lính" của Nguyễn Minh Châu, "Bài ca chim chơ-rao" của Thu Bồn, "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm, "Vầng trăng quầng lửa" của Phạm Tiến Duật...

Văn học đã xây dựng những nhân vật như những vầng hào quang trên bầu trời sử thi tỏa chiếu ánh sáng lý tưởng soi rọi, hướng bạn đọc đi về phía cái cao cả, cái anh hùng.

Thượng tá, Tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa trình bày báo cáo đề dẫn.

Thượng tá, Tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa trình bày báo cáo đề dẫn.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, diễn ra trong suốt 20 năm, là cuộc chiến tranh dài nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Đây cũng là một trong những cuộc chiến có số thương vong lớn nhất trong lịch sử nhân loại.

Sự dai dẳng và khốc liệt của cuộc chiến này càng dễ nhận khi chúng ta đặt nó bên cạnh những đại chiến của thế kỷ 20, như Thế chiến thứ nhất (1914-1918), Thế chiến thứ hai (1939-1945) trong đó có cuộc chiến tranh vệ quốc kéo dài 4 năm của nhân dân Xô-Viết. Như một quy luật tất yếu, cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta đòi hỏi không ngừng được văn học nghệ thuật khai thác, đòi hỏi phải có những tác phẩm xứng tầm.

Con người yêu nước là con người không được quên đi quá khứ của dân tộc mình. Một quá khứ đau thương nhưng cao cả, hào hùng phải luôn được làm sống lại trong mỗi con tim người Việt hôm nay và mai sau. Đó cũng là lý do có hội thảo này.

Thượng tá, Tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa

Hội thảo nhận được 50 tham luận đóng góp với nội dung tập trung vào ba cụm chủ đề. Một là, khẳng định thành tựu của văn học viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ ngay trong lòng cuộc chiến.

Đó là giai đoạn văn học được viết theo khuynh hướng sử thi, nhằm cổ vũ tinh thần chiến đấu, góp phần đắc lực vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Hai là, ghi nhận những cách tân, tìm tòi, sáng tạo của mảng văn học viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ từ ngày thống nhất đất nước đến nay; tổng kết những bài học kinh nghiệm và đưa ra những đề xuất, gợi ý cho văn học tiếp tục viết về chiến tranh trong thời gian tới. Ba là, đánh giá, khẳng định những tác giả, tác phẩm nổi bật, tiêu biểu của văn học viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ trong cả hai giai đoạn trước và sau 1975.

Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Dũng trình bày ý kiến tại hội thảo.

Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Dũng trình bày ý kiến tại hội thảo.

Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Dũng nhận định trong tham luận: Từ sau năm 1975, đặc biệt từ những năm 1980 đến nay, văn học Việt Nam viết về chiến tranh đang ở giai đoạn thứ hai với sự lộ diện dần những đặc điểm mới, trong sự tìm kiếm vất vả và quyết liệt của tư duy sáng tạo.

Theo ông, văn học viết về chiến tranh ngay trong khi chiến tranh đang diễn ra đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử. Vì thế ở giai đoạn hai, văn học trở về với quá khứ chiến tranh tự đặt cho mình một nhiệm vụ: tiếp tục khám phá và cả khám phá lại để phát hiện những vấn đề còn ẩn sâu trong chính quá khứ chiến tranh đó. Khi chiến tranh đã lùi xa, mọi sự kể tả giản đơn, chỉ miêu tả lại các sự kiện, biến cố chiến tranh, hành động của con người theo dạng dựng lại hay minh họa lịch sử đều chưa thỏa mãn người viết và cả người tiếp nhận.

Số phận, đường đời, đặc trưng tính cách con người trong chiến tranh còn vô vàn những điều chưa biết, còn nhiều ẩn số có thể và cần thiết phải lý giải. Có nghĩa là, từ giai đoạn hai này, văn học đề tài chiến tranh không thể chỉ dừng lại ở việc tái dựng lịch sử chiến tranh như ta đã từng biết, mà phải khám phá sâu thêm, mới thêm trong quá khứ đó cái ta chưa từng biết. - Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Dũng

"Mặc dầu trải qua không ít khó khăn, nhiều nhà văn - cả trưởng thành trong chiến tranh và cả lớp trẻ - đã bứt lên, tự đổi mới chính mình, đặc biệt là lớp nhà văn hình thành vào cuối thời kỳ chống Mỹ, đã cho ra đời những tác phẩm thực sự có cách nhìn mới, đáp ứng nhu cầu của công chúng tiếp nhận, qua đó, minh chứng cho một quy luật không thể né tránh của mảng văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh", Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Dũng khẳng định.

Ông cũng bày tỏ niềm tin tưởng trước sự xuất hiện của một đội ngũ cây bút trẻ nhiều triển vọng để nối tiếp niềm tin mảng đề tài chiến tranh vẫn và sẽ còn hấp dẫn và được nối dài hơn nữa theo thời gian.

Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Sử trình bày tham luận về "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh.

Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Sử trình bày tham luận về "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh.

Trong tham luận về tác phẩm "Nỗi buồn chiến tranh" (Bảo Ninh) đã ra đời và nổi tiếng khắp thế giới, Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân Trần Đình Sử, nhận định: Tác phẩm mang một chủ đề kép, không chỉ nêu một cách nhìn khác về chiến tranh, mà còn đề xuất một cách viết khác về đề tài chiến tranh, đề xuất một đổi thay về phương pháp sáng tác.

Đây còn là một tiểu thuyết xuất sắc về ngôn ngữ văn học. Toàn bộ tác phẩm không phải lời kể chuyện thông thường, mà là lời độc thoại của nhân vật do người kể chuyện mượn để làm điểm tựa, lời của nhân vật Kiên. Vì thế đọc tiểu thuyết như là đọc lời bộc bạch, trữ tình, tâm sự của một tâm hồn.

Các đại biểu tham quan khu vực trưng bày sách của Thư viện Quân đội.

Các đại biểu tham quan khu vực trưng bày sách của Thư viện Quân đội.

Đại tá, nhà thơ Trần Anh Thái cho rằng: Muốn văn học viết về chiến tranh tiếp tục có được những tác phẩm xứng tầm với cuộc kháng chiến chống Mỹ là vấn đề lớn.

Theo đó, các nhà văn khi viết về chiến tranh không phải họ "bê nguyên si" hiện thực đồ sộ của các sự kiện vào tác phẩm, mà chỉ dựa trên nền tảng của các sự kiện để khai thác triệt để mọi góc cạnh trong những tầng sâu nhân tính và thân phận con người… Những tác phẩm văn học lớn của Việt Nam và thế giới là những tác phẩm như vậy.

Từ quan niệm đó, theo ông để có được những tác phẩm có giá trị lớn viết về chiến tranh và người lính, các nhà văn không có cách nào khác là viết với tư cách là một nghệ sĩ; phải sáng tạo ra những giọng điệu riêng biệt trong cả ngôn ngữ, hình ảnh và cấu trúc.

Các đại biểu tham dự hội thảo.

Các đại biểu tham dự hội thảo.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Điệp trong tham luận về thơ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ nhấn mạnh: Tầm vóc của một thời đại thơ ca phải kết lại trong những tác phẩm xuất sắc mà các nhà thơ để lại cho đời. Từ điểm nhìn hôm nay có thể nhận thấy thơ thời kỳ chống Mỹ không những đã tượng hình vẻ đẹp của đất nước, nhân dân một cách chân thực, hào hùng mà còn để lại nhiều kinh nghiệm nghệ thuật đáng quý, kể cả mặt thành công và hạn chế. Trong các vấn đề được nêu ra, ông cho rằng, bất kỳ sự cách tân nào cũng phải xuất phát từ sự chân thực trong cảm xúc và sự mạnh bạo trong quan niệm nghệ thuật.

Hội thảo thu hút đông đảo đại biểu trong và ngoài quân đội.

Hội thảo thu hút đông đảo đại biểu trong và ngoài quân đội.

Thơ ca giai đoạn này có khả năng lay thức nhiều người đọc vì các nhà thơ đã dám sống đến cùng với số phận của đất nước và nhân dân trong tinh thần dám sống đến "tận đáy" với chính mình và với dân tộc.

Đó vẫn là yêu cầu sống còn đối với người cầm bút ở bất cứ thời đoạn lịch sử nào. Theo ông, đây cũng chính là kinh nghiệm nghệ thuật lớn nhất mà thơ ca giai đoạn này đã để lại cho các giai đoạn kế tiếp.

Trong khuôn khổ một diễn đàn khoa học, hội thảo đã mở ra đa dạng những ý kiến về hướng viết, hướng nghiên cứu; đa chiều những tranh luận phù hợp với đường lối văn hóa của Đảng và xu hướng đối thoại của thế giới hôm nay.

Hội thảo cũng đã đưa ra những đề xuất quan trọng về việc phát triển văn học trong bối cảnh hiện nay, đồng thời khẳng định giá trị và sức sống mãnh liệt của văn học chiến tranh trong việc giáo dục và truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ, khơi dậy niềm tự hào dân tộc và khẳng định sự vươn lên mạnh mẽ của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Có thể bạn quan tâm

Nữ Đội trưởng Đội du kích Củ Chi với cánh tay không còn lành lặn. (Ảnh nhân vật cung cấp)

Nữ du kích vùng Đất thép thành đồng

Tôi gặp cô Sáu Trong vào một chiều mưa Hà Nội. Cô có làn da sạm nắng cùng mái tóc pha sương nhuốm màu thời gian. Đôi mắt cô hiền hòa nhưng sáng nét kiên định, sắc bén của người chiến sĩ cộng sản một thời vào sinh, ra tử trên chiến trường lửa đạn. Cô là Dũng sĩ diệt Mỹ, Đội trưởng Đội du kích Củ Chi, vùng Đất thép thành đồng.

Những cầu thủ đầu tiên của Thể Công. (Ảnh: Tư liệu)

Bóng đá ở miền bắc 1954-1975: Giữa lửa đạn chiến tranh, song hành công cuộc kiến quốc

Giữa khói lửa chiến tranh và hành trình xây dựng đất nước, bóng đá ở miền bắc giai đoạn 1954-1975 vẫn âm thầm phát triển và lan tỏa. Không chỉ là môn thể thao được yêu thích, bóng đá còn trở thành công cụ phục vụ cách mạng, nâng cao đời sống tinh thần và gắn kết cộng đồng trong những năm tháng đầy gian khó.

Một chút ký ức thời làm báo ở rừng

Một chút ký ức thời làm báo ở rừng

Trong hồi ức của nhà văn Lê Quang Trang, công việc của người làm báo Văn nghệ giải phóng vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa có cái gian lao cực khổ của đời sống chiến trường, nhưng lại có sự hấp dẫn của phiêu lãng, tích cực của rèn luyện phẩm chất, sâu bền của tích lũy vốn sống.

Mô hình Địa đạo Củ Chi của nhóm học sinh Trường THCS Cầu Giấy (Hà Nội). (Ảnh LÊ DUY)

Từ di tích lịch sử đến những bài học sinh động

Địa đạo Củ Chi, một biểu tượng của sức mạnh Việt Nam trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều sáng kiến độc đáo. Từ mô hình học tập ứng dụng liên môn (STEM) đến “bảo tàng ảo” trong trò chơi điện tử trực tuyến (game online), thế hệ trẻ đang tiếp nối truyền thống và lòng tự hào dân tộc theo cách của thời đại mình.
Những đứa trẻ đội mũ rơm tới trường

Những đứa trẻ đội mũ rơm tới trường

Có một thời mà biết bao gia đình Việt Nam phải chịu cảnh ly tán. Một thời bom Mỹ trút trên mái nhà. Một thời mà những đứa trẻ đầu đội mũ rơm, lưng đeo vòng lá “ngụy trang”, men theo giao thông hào để đến trường. Tuổi thơ của họ gắn chặt với những lớp học trong bom đạn, sống xa cha mẹ và tập quen với việc tự lập. Họ là thế hệ lớn lên từ những ngày sơ tán…
Biệt động Sài Gòn – Lực lượng vũ trang đặc biệt

Biệt động Sài Gòn – Lực lượng vũ trang đặc biệt

Biệt động Sài Gòn là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, có lối đánh độc đáo, thích hợp đạt hiệu quả cao, gây tác động mạnh quân địch và có tiếng vang lớn cổ vũ khí thế chiến đấu của quân, dân thành phố và cả nước. Trong đó, cuộc tấn công vào các mục tiêu Tết Mậu Thân là đỉnh cao của lực lượng biệt động về nghệ thuật tổ chức chỉ huy, hợp đồng chiến đấu và tinh thần dũng cảm tuyệt vời của các chiến đấu viên.
Hồi ức của một nhà giáo đi B

Hồi ức của một nhà giáo đi B

Dài dọc con đường Trường Sơn không chỉ có hình bóng của những người lính Cụ Hồ, chặng đường ấy còn hằn in dấu chân của hàng nghìn nhà giáo ngày đêm hành quân từ miền bắc vào chi viện cho chiến trường miền nam thân yêu. 

Nữ biệt động 16 tuổi và chuyện dũng cảm pháo kích vào Sở Chỉ huy của tướng Mỹ

Nữ biệt động 16 tuổi và chuyện dũng cảm pháo kích vào Sở Chỉ huy của tướng Mỹ

Nhỏ tuổi nhưng ý chí không nhỏ, 16 tuổi, nữ chiến sĩ biệt động Nguyễn Thị Bích Nga đã trực tiếp tham gia pháo kích vào trụ sở của Tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở Việt Nam ngay tại Sài Gòn. 17 tuổi bị bắt vào tù, trải qua nhiều nhà giam của địch, bà vẫn kiên cường giữ vững ý chí cách mạng, không khuất phục trước mọi đòn tra tấn của địch.
Ký ức về Chiến thắng 30/4 trong lòng Việt kiều Pháp

Ký ức về Chiến thắng 30/4 trong lòng Việt kiều Pháp

Ngày 30/4/1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước - niềm vui vỡ òa, những giọt nước mắt sung sướng, những lời chúc mừng của bạn bè Pháp… đó là những kỷ niệm không bao giờ quên của các bác Việt kiều tại Pháp chia sẻ cùng nhân kỷ niệm 40 năm Ngày miền nam hoàn toàn giải phóng.
Con trai nhà thầu khoán Mai Hồng Quế: “Tôi muốn trả cho ba sự thật về cuộc đời ông”

Con trai nhà thầu khoán Mai Hồng Quế: “Tôi muốn trả cho ba sự thật về cuộc đời ông”

Tự nhận mình là đứa con ngỗ nghịch nhất nhà, chỉ dám nhìn ba mình - Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Trần Văn Lai (nhà thầu khoán Dinh Độc Lập Mai Hồng Quế) từ xa, nhưng những gì mà anh Trần Vũ Bình đã và đang làm, lại rất đặc biệt với tâm nguyện: “muốn trả cho ba sự thật về cuộc đời ông”.
Những người bạn Pháp gắn bó với Việt Nam và các thế hệ Việt kiều cùng ôn lại những năm tháng hết lòng đấu tranh vì độc lập và hòa bình cho Việt Nam.

Bí thư toàn quốc PCF: Việt Nam sẽ tiếp tục lập kỳ tích trong kỷ nguyên vươn mình

Tối 29/4, phát biểu tại Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025) được tổ chức long trọng tại Trụ sở Đảng Cộng sản Pháp ở Paris, Bí thư toàn quốc Fabien Roussel nhấn mạnh, 50 năm qua dân tộc Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, thật sự là một kỳ tích và sẽ tiếp tục lập kỳ tích mới trong kỷ nguyên vươn mình.

Ký ức ngày 30/4/1975

Ký ức ngày 30/4/1975

Trong thời khắc lịch sử của 50 năm về trước, khi miền nam hoàn toàn giải phóng, nhiều người đã trào dâng nước mắt khi lần đầu tiên thấy thành phố Sài Gòn im tiếng súng, không còn bom đạn, đau thương… Dù nửa thế kỷ đã qua đi, nhiều người vẫn không giấu được niềm xúc động khi hồi tưởng lại khoảnh khắc đó.
Nguyên Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa và chuyện những người tù cách mạng nhường nhau tất cả, chỉ “giành” khó khăn về mình

Nguyên Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa và chuyện những người tù cách mạng nhường nhau tất cả, chỉ “giành” khó khăn về mình

Trong không khí náo nức hướng về dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, chúng tôi may mắn được gặp gỡ bà Trương Mỹ Hoa - nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước, lắng nghe bà trò chuyện về những hồi ức của những ngày tham gia cách mạng. Bà là một nữ cựu tù chính trị Côn Đảo, một nhân chứng lịch sử góp mặt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hào hùng của dân tộc.
Theo dấu chân "Biệt động Sài Gòn": Căn hầm bí mật giữa trung tâm đô thị Sài Gòn

Theo dấu chân "Biệt động Sài Gòn": Căn hầm bí mật giữa trung tâm đô thị Sài Gòn

Cách đây gần 60 năm, một căn hầm bí mật đã được xây dựng ngay giữa những con phố sầm uất của trung tâm Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Bên dưới nền gạch hoa đỏ trắng đan xen của ngôi nhà nhỏ tại địa chỉ 287/70 Nguyễn Đình Chiểu, lực lượng Biệt động Sài Gòn-Gia Định đã âm thầm cất giữ hơn 2 tấn vũ khí phục vụ tấn công Dinh Độc Lập (nay là Dinh Thống Nhất) và một số cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam cộng hòa trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, nơi đây đã trở thành một "địa chỉ đỏ" của thành phố, nơi lịch sử được kể lại bằng những vật chứng sống động và những ký ức vẹn nguyên.
PGS, TS Nguyễn Văn Kình trong chiến trường miền nam năm 1969.

Khúc tráng ca của người chiến sĩ áo trắng

Tháng tư, Hà Nội trong vắt như một khúc tưởng niệm yên bình. Tôi gặp PGS, TS Nguyễn Văn Kình, Trưởng Ban liên lạc Ban Dân y miền nam khu vực miền bắc ngay sau chuyến trở về chiến trường xưa ở Tây Ninh nhân dịp 30/4. Ông từng là chiến sĩ dân y trên tuyến lửa miền đông nam bộ.

Người dẫn quân Cách mạng vào thành Huế trong chiến thắng năm 1975

Người dẫn quân Cách mạng vào thành Huế trong chiến thắng năm 1975

Năm 1983, loạt phim tài liệu “Việt Nam, thiên lịch sử truyền hình” của Đài truyền hình NBC phát sóng tại Mỹ thu hút số lượng người xem cao nhất lúc bấy giờ. Trong phim có cảnh quay ngắn về một thanh niên chạy xe máy, chở người lính cầm cờ giải phóng, dẫn đầu đoàn quân Cách mạng tiến vào cửa An Hòa đúng ngày giải phóng TP Huế.