Hơi ấm trùng khơi

Căn hộ chung cư tôi ghé thăm trước khi bước chân lên chuyến tàu công tác Trường Sa giống hệt như hàng trăm căn hộ ở khu đô thị. Nhà không có đàn ông, từ việc lớn trong gia đình như họ mạc, con cái, đến cái quạt, ti-vi bị hỏng, bắc ghế đóng đinh lên tường… cũng chỉ một tay người phụ nữ.

Chiến sĩ Hải quân đọc thư gửi từ đất liền. Ảnh: TRẦN THÀNH
Chiến sĩ Hải quân đọc thư gửi từ đất liền. Ảnh: TRẦN THÀNH

Chị Huyên trò chuyện cùng tôi, giọng miền trung đầy thương khó: “Vất vả vậy chứ chị vui lắm em, ba mẹ con chuyển được vào cách đây mấy tháng, vậy là được gần anh rồi”. Tôi hỏi lại: “Hơn chục năm nay, mỗi năm anh một lần phép, thế bây giờ thì sao?”. Giọng chị chợt chùng xuống: “Bây giờ thì… cũng rứa! Có điều, chị và cháu ở đây, ít ra, những chuyến mọi người ra thăm đảo rồi mùa thay quân, chị được hỏi thăm anh qua người đi, người về”. Nhác thấy nét mặt đầy tâm trạng của tôi, chị Huyên rủ rỉ tâm tình, giải thích: “Nếu em có chồng ra đảo, em sẽ thấu cảm giác gần kề dù chẳng gặp được nhau, dù lòng vẫn thổn thức, nấc nghẹn khi nghe tiếng còi tàu chào cảng”. Những người vợ lính ở khu đô thị này tuổi đời đều còn rất trẻ. Vì thương con, ngóng chồng mà họ phải xa quê, có người dở dang công việc và hoài bão. “Có người vợ lính viết câu thơ thế này: Anh biết không em sợ tiếng còi tàu/ Bởi nhói lòng khi ta phải xa nhau/ Dẫu đến nay đã bao lần đưa tiễn/ Vậy mà sao nước mắt cứ chực trào. Mỗi lần anh Thịnh bước lên tàu, chị đứng ở cầu cảng và cảm giác đó lại dội lên”, vừa nói chị vừa cúi mặt, bàn tay gầy guộc tết nốt bên tóc đuôi sam cho cô con gái nhỏ.

“Cây hoa hồng bằng ốc ngọc lan này là của bố cháu gửi về tặng ba mẹ con đấy cô ạ. Bố kể, sau giờ huấn luyện, rất nhiều chú bộ đội trên đảo ra bờ cát tìm vỏ ốc, dây thép, ni-lông tặng bố cháu làm món quà này đấy. Nơi bố cháu công tác thì chẳng có bờ cát đâu, bố ở nhà giàn”, con trai lớn của chị Huyên đã học lớp bốn, líu lo khoe với tôi cây hoa hồng đặc biệt có ba khóm. Khóm lớn ba mươi tám bông hoa ứng với số tuổi của chị Huyên, còn lại hai khóm nhỏ, số hoa là số tuổi các con anh năm ấy. Tôi hứa với chị, chuyến công tác lần này, dù gặp được anh hay không, tôi vẫn tìm cách gửi món quà nhỏ của chị tới được tay anh, thông qua những chuyến tàu, những người đồng đội.

* * *

“Chị cứ an tâm, biển đảo bao la mà cũng gần gụi lắm! Chị nhìn can cà muối này đi, trên ấy chỉ đề mỗi “Dũng - TSĐ”, TSĐ là đảo Trường Sa Đông viết tắt đấy, mà ở đó chắc chắn nhiều người trùng tên, thế mà bằng cách nào đó, đồ vẫn tới tay người cần nhận”, đồng chí Chính trị viên tàu KN 490 động viên khi gặp ánh mắt âu lo của tôi, sợ không chuyển được gói quà của chị Huyên cho anh Thịnh. Ảnh hưởng bão, tàu lắc lư suốt ngày, điện thoại hoàn toàn mất sóng, tôi cũng chẳng thể hình dung bằng cách nào để gặp được người lính nhà giàn giữa biển trời mênh mông. Qua hải trình sáu ngày, tàu ghé thăm được nhiều đảo. Đầu tiên là Song Tử Tây, điểm cuối là Trường Sa - điểm duy nhất của quần đảo tàu cập áp mạn cảng và diễn ra cảnh tàu chào đảo xúc động trong đêm khuya. Một vài đồng nghiệp của tôi đã chuyển thành công những gói quà gia đình bộ đội trong đất liền gửi ra, phấn chấn ra mặt. Có cuộc gặp tình cờ, may mắn ngỡ như mơ. Một người chị cùng chuyến đi với tôi bắt chuyện với các thủy thủ, chợt biết người mình gửi giúp quà đang trên tàu ở cùng khu vực. Họ gặp nhau giữa trùng khơi, chị chuyển được hai gói trà Thái Nguyên của bố mẹ anh nơi quê nhà sang tàu bên ấy. Tạm biệt nhau rồi, vẫy chào mãi, nhưng chỉ lúc sau, khi tàu chúng tôi đang thả neo, chàng thủy thủ cùng một vài anh em tàu ấy đi ca- nô sang chơi. Thế là, bên này có quà bánh, trái cây gì mang ra mời nhau hết. Đầu tiên, một quả bưởi được bóc ra hết sức nâng niu, nhẹ nhàng. Sau đó, ba quả ổi ban đầu bổ một. Khách định ăn nhưng nhìn chúng tôi, nếu chúng tôi ăn, các anh cũng lại mới ăn. Để xua đi không khí ngại ngần, chúng tôi đành ăn từng miếng, với mình thì thừa, khách thì quá thiếu. Cảm giác ấy khó tả lắm, thương nhau lắm. Bổ thêm quả nữa, mình ăn, khách mới ăn. Câu chuyện vừa kịp đượm lại đến giờ thủy thủ phải về tàu. Người chị thật sự lúng túng, chẳng biết phải làm gì nữa, về phòng lấy hết hoa quả, dăm quả quýt, quả ổi, vài quả bưởi… cho vào túi đưa vội cho anh em, bốn bề trời đã tối.

Đêm trăng Trường Sa thiên về các cuộc tâm tình. Bộ đội trên tàu thả cước theo quán tính, dường như chẳng mấy ai cần chờ kết quả. Một ấm trà đặc “cắm tăm” được pha. “Đằng nào lát nữa chả đi ca, chúng tớ chẳng sợ gì mất ngủ!”, ai đó giọng hào sảng quay sang nói với nhóm nhà báo. Thế là những câu chuyện cứ tiếp nối câu chuyện, chuyện nhà, chuyện quê. Ban ngày anh em giữ ý, ngại ngần là thế, hỏi gì cũng không nói, thế mà bấy giờ lời cứ tuôn ra như là tự sự. Rồi đến lúc, bỗng chẳng ai nói gì mà tất cả cứ thấy ắp đầy giao cảm. Ở giữa không gian bao la, ta như được hòa nhập với biển trời, và biển trời cũng đưa ta xích lại từ bên trong.

* * *

Ngày cuối hành trình, đêm đến, mở điện thoại ra, thi thoảng chớp lên một hai vạch sóng, biết ngay tàu đang đi qua nhà giàn. Cả chục ngày lênh đênh trên biển, ghé thăm đảo nổi, đảo chìm, tưởng chừng muối mặn khơi xa đã ngấm sâu đến từng hơi thở ấy thế mà khi tới thềm lục địa phía nam, lên nhà giàn, cảm xúc về biển cả lại rộng mở ra những chân trời miên man, thẳm biếc. Bình minh chầm chậm dâng lên, sừng sững trước mắt người ngôi nhà thép sơn vàng bừng sáng hệt đóa hoa hướng dương. Bỗng đâu, có cơn giông bất ngờ kéo đến dù phía xa kia, vẫn khung trời bình minh sóng sánh vàng như mật. Tàu bắt đầu rung lắc, sóng biển đánh thẳng vào chân nhà giàn, trắng cả một vùng. Cơn giông qua đi rất nhanh, tàu tiến gần nhà giàn hơn, càng tiến gần càng thấy đóa hoa thép kia vững vàng, sừng sững. Những trụ thép lớn kẻ dọc ngang mặt biển kiêu hãnh, hiên ngang mà không kém phần lãng mạn. Nó dấy lên trong tôi sự bất ngờ, ngỡ ngàng, không hiểu bằng cách nào và trải qua bao thăng trầm để chúng ta có thể xây dựng nên những cột mốc chủ quyền đầy thiêng liêng ấy. Anh Thịnh ở trên kia, trong hàng lính quân phục Hải quân nghiêm trang vẫy chào đoàn.

“Chị ngồi tạm ở đây nhé, không gian riêng của bộ đội chỉ thế này thôi”, người lính vừa kéo ghế, vừa tìm ấm pha trà. Tôi ngồi ở một góc phòng nhỏ thật nhỏ, hai bức tường cắt nhau bởi một góc tưởng như không thể nào nhọn hơn và hẹp hơn. Nhưng kìa, có nhành phong lan mầu tím hồng thật rực rỡ, mềm mại uốn một nét cong cạnh cây đàn ghi-ta, hình ảnh giản dị mà đầy xúc động. Anh dẫn tôi tham quan khắp nhà giàn.

“Giò phong lan chị vừa hỏi đến chỉ có thể là của cán bộ, chiến sĩ mang ra. Vì sao ư? Vì từ đất liền ra đây, quân tư trang nặng trĩu trên vai, bộ đội chỉ có thể gói ghém một nhành lan nhỏ. Ra tới đây, phải nâng niu, chăm chút kỹ lắm thì nhành cây cấy trên khúc gỗ mục kia mới có thể sống sót, đơm bông. Khí hậu khắc nghiệt nên một nhành lan đó mãi không sinh sôi thêm. Hy hữu, vẫn có những nhà giàn có chậu phong lan thật to, nhiều nhánh hoa rực rỡ. Đó là món quà của Hiệp hội hoa Đà Lạt tặng bộ đội vui Tết đón Xuân”. Anh Thịnh nói, tôi lắng nghe, giọng như có sóng, có nước, có nỗi bâng khuâng muốn ngỏ với đất liền.

Quê anh ở Thái Bình, ngay gần biển, suốt ngày đêm vẫn vẳng bên tai tiếng dạt dào. Thế mà, bố anh lại chưa một lần được ngắm biển. Ông bị mù, đôi mắt nhắm hay mở cũng chỉ toàn bóng tối. Anh đi bộ đội, làm lính nhà giàn, bố tự hào lắm. Mỗi lần con trai về phép, ông cứ hỏi: “Biển ngoài ấy có đẹp như biển quê mình? Ồ, chắc là rộng lắm, xanh lắm, mà sóng cũng dữ lắm nhỉ?”. Anh trả lời, biển Tổ quốc ta nơi nào cũng đẹp. Chị Huyên người miền trung, họ tình cờ quen biết, yêu xa mấy năm trời. Từ lúc yêu tới khi nên vợ nên chồng chỉ gặp nhau vài bận.

* * *

Vài giờ đồng hồ thăm nhà giàn trôi qua rất nhanh. Một số thành viên có kinh nghiệm trong đoàn công tác khẳng định, lên được thế này là rất may mắn bởi nếu gặp thời tiết xấu hoặc thủy triều bất lợi thì chẳng thể lên nổi chứ đừng nói chuyện thong thả, hàn huyên bên ấm trà. Tới lúc phải chào anh Thịnh, tôi hỏi anh có gửi gì về không, anh gãi mái đầu lướt mướt mồ hôi: “Chị đã có lòng chia sẻ thì xin chị chờ bộ đội chút nhé”. Quà anh đã đóng sẵn rồi, cũng một gói nhỏ nhẹ tênh, kích cỡ hệt của chị Huyên gửi ra. Vừa tiễn tôi xuống từng bậc nhà giàn, anh vừa kể, nhiều năm qua, vợ chồng anh trao nhau những chiếc áo thấm hơi người. Hơi áo đất liền có mùi bếp núc, xà-bông, bỉm sữa... hơi áo khơi xa mặn mòi muối biển, sóng lừng, giông bão... “Nhưng chị có biết, mùi gì là rõ rệt nhất không? Mùi của những đêm dài thao thức đấy! Hơi người khi phải sống xa nhau mà luôn nghĩ về nhau, luôn thuộc về nhau cứ nồng nàn, cuồn cuộn, như chạm được vào, thương lắm!”. Lời nói của anh Thịnh găm mãi trong đầu óc tôi bằng niềm xúc động đến ám ảnh. Tôi đang cầm trên tay vật chứng của những đêm dài yêu thương, mộng mị.

Sau cuộc gặp gỡ với nhà giàn là một cơn mưa biển. Tàu cất ba hồi còi chào nhà giàn thao thiết, âm vang. Mưa nhẹ nhõm, mong manh không mấy ảnh hưởng tới tầm nhìn. Tôi vẫn đứng trên mũi tàu, trên tay là gói quà sẽ trở ngược về đất liền, là bí mật anh Thịnh không ngại ngần trao gửi. Qua ống kính tê-lê, tôi thấy anh Thịnh vẫn đứng nguyên một điểm, như khi tiễn tôi xuống xuồng về tàu. Anh vẫn giơ tay vẫy chào. Chắc chắn, anh không thể nhìn thấy tôi, càng không biết tôi nhìn được anh khá rõ ràng. Lòng tôi như có muôn sợi dây kết nối mong manh ẩn hiện như giăng tơ, dệt cửi. Một vài thủy thủ đứng bên tôi, họ cũng nhìn mãi về hướng nhà giàn, dáng hình như đóa hoa hướng dương sắp bước vào giấc mộng lóng lánh trăng sao đúng độ đêm rằm. Chỉ ngày mai thôi, nơi cầu cảng, tôi sẽ gặp ba mẹ con chị Huyên bên hàng trăm con người khác cũng thấp thỏm đợi chờ, mong ngóng. Họ chờ những chuyến tàu, chờ những con người xa lạ chuyển giúp cho mình chút hơi ấm tự trùng khơi.

Có thể bạn quan tâm

Nhà báo Nguyễn Trọng Định - người đầu tiên từ bên phải qua. Ảnh tư liệu của Nhà báo Trần Mai Hạnh

Người ra đi từ gốc đa Hàng Trống

Trong bức ảnh được chụp ngày 14/7/1968 tại bộ phận tiền phương Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng Đà thuộc địa bàn huyện Duy Xuyên có tám nhà báo thì sau đó bốn người là liệt sĩ, một người là thương binh nặng. Người hy sinh đầu tiên là nhà báo-nhà thơ Nguyễn Trọng Định, phóng viên Báo Nhân Dân, cùng trong tổ phóng viên vào chiến trường Quảng Đà một ngày với tôi", nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh hồi tưởng.
Lần họp lớp gần nhất là chuyến thăm Khu di tích lịch sử Bạch Đằng (Thủy Nguyên, TP Hải Phòng).

Trưởng thành nhờ đất nước và cùng đất nước

Tháng 6/2022 này, sinh viên Khoa Ngữ văn, khóa VIII, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) kỷ niệm 55 năm ra trường. Với lịch sử đất nước, 55 năm không dài. Nhưng quãng thời gian đó đủ để một thế hệ đi từ khởi điểm của tuổi thanh xuân đến cận kề những bậc thang cuối của đời người.

Người dân xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận thu hoạch trái thanh long. Ảnh: Duy Hiển

Ân tình miền cát

Mảnh vườn đang lên xanh-cái mầu xanh từ những cành thanh long vươn dài-của Quân là hình ảnh sống động và lưu lại đầu tiên trong tâm trí tôi khi về với náo nức đất trời Bình Thuận, trong những ngày cuối năm nhiều cảm xúc.

Nhà báo Trần Lâm.

Mùa thu với hai nhà báo lão thành

Kể từ mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đội ngũ báo chí cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đông về số lượng và tăng về chất lượng.

Nụ cười ấm giữa ngày giông bão

Thành phố lại vào mùa mưa. Những cơn mưa dầm dề suốt ngày cùng con số ca nhiễm tăng cao, thêm nhiều hình ảnh cay sống mũi, đỏ hoe mắt khiến người thành phố thao thức.

Người dân hẻm 17, đường Gò Dầu (phường Tân Quý, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh) đi chợ tại "Gian hàng 0 đồng sẻ chia cùng khu cách ly". Ảnh: HUẾ XUÂN

Sài Gòn ân nghĩa

Không ai hiểu rõ Sài Gòn bằng chính người Sài Gòn. Sự hào sảng, nghĩa tình, lạc quan của thành phố này đã khiến cái sự “trọng thương” mà người nơi khác ví von đã không còn là một cảm thán tội nghiệp. Tự bản thân người nơi đây sẽ biến nó thành một sự khích lệ, động viên, là một ân tình lớn lao, mà có lẽ phải trải qua “mùa dịch bệnh”, người ta mới càng thật sự thấm thía hết ý nghĩa của từ này.

Trái tim của tôi

Trái tim của tôi

Sau nhà tôi hồi xưa có một cái khe núi. Nhà tôi đã ở gần khe núi rồi, nhưng vẫn chưa phải là nhà cuối cùng. Cuối cùng là nhà một người Tày, nằm tận cửa khe núi luôn. Vào mùa đông, khe gần như cạn, những tảng đá to như lưng trâu nằm trơ trơ ra. Nhưng cuối xuân, đầu hè, khi những tiếng sấm bắt đầu ì ùng và mưa rào trút xuống, thì nước bắt đầu chảy len lỏi qua những khe đá, và đầy dần lên. Nếu mưa kéo dài chừng nửa ngày thì dòng suối sẽ như một con thuồng luồng dài ngoằng, dữ dội, lạnh lùng, cuốn phăng theo nó tất cả những gì nằm lổng chổng ven đường.

Miền sen và làng cổ

Làng cổ Nha Xá, xã Mộc Nam, Hà Nam nổi tiếng với những nếp nhà cổ và nghề dệt lụa. Người làng tự hào lắm một vùng quê yên bình, nằm giữa hệ thống ao, đầm sen rộng bát ngát.

11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, bộ đội ta cầm cờ tiến vào Dinh Ðộc Lập. Ảnh: Vũ Tạo - TTXVN

Chiều 30 tháng 4, chúng tôi đến Sài Gòn

14 giờ ngày 30/4/1975, trên chiếc xe Jeep "lùn", chúng tôi - nhóm phóng viên báo Chiến sĩ Giải phóng - Quân đoàn 2, vào tới dinh Ðộc Lập. Lúc này sân trước Dinh đang ồn ã với số đông phóng viên báo chí và cán bộ, chiến sĩ ta.

Minh họa: THU HÀ

Cúi đầu trước núi

Tự dưng lúc này đây, khi đang ngồi dưới chân một dãy núi Tây Nguyên mà trong tôi lại trào lên cảm thức về những ngọn núi. Ðó có thể là nỗi ám ảnh mang mạch thở linh sơn đâu đó trong tâm tưởng. Ngắm núi mà muốn thốt lên lời tự lòng mình, ơi những chóp đỉnh cao vời, cho tôi xin được ngàn lần cúi đầu ngưỡng vọng…    

Tinh khôi hoa trắng

Về quê tôi dịp này có thể dễ dàng bắt gặp ở khắp các lối ngõ, bờ ao bừng lên một mầu trắng muốt tinh khôi của hoa dành dành. Mùi hương ngọt nồng dẫn lối đưa đường, dụ bao bướm ong dập dìu tụ tìm hút mật. Khi dành dành vào kỳ trổ hoa, ấy là mùa xuân cũng chuẩn bị khép lại.

Hà Nội mùa cây thay lá

Hà Nội mỗi mùa mang một sắc, mỗi con phố nhuốm một màu, thảy tất bốn mùa đều để lại cho ta cảm nhận những nét đẹp bâng khuâng trong sâu thẳm lòng mình mà khó có nơi nào có được. 

Cải vàng gọi nắng triền sông

Cuối năm, gió đã chuyển mình, cái rét len lỏi đâu đó trong từng nhành cây, ngọn cỏ. Hoa cải vào mùa, xôn xao rực vàng nơi triền sông vắng. Buổi chiều bỗng dài ra, lũ bướm ong tíu tít, mải mê bay lượn đến quên cả lối về.

Những ô cửa phố

Dịp cuối thu đầu đông, hương hoa sữa nồng nàn tỏa. Tôi có thói quen dạo phố một mình chỉ để nhẩn nha ngắm những ô cửa sổ, đôi khi ngỡ ngàng bởi chỉ là ô cửa sổ thôi cũng quá nhiều kiểu dáng thiết kế và mầu sắc trang trí. Rất nhiều ô cửa sổ nhìn ra đường, bên những ban-công được trồng nhiều khóm hoa xinh xắn. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cửa sổ có lẽ cũng là đôi mắt của ngôi nhà. Cửa sổ tạo mỹ quan cho không gian chung cả tuyến phố. Ở Hà Nội, các phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Phan Ðình Phùng, Nguyễn Gia Thiều… còn hiện diện nhiều ô cửa sổ nhuốm thời gian. Ở đó còn nhiều biệt thự cổ kính, những bức tường loang mầu hoài niệm, khi ấy những ô cửa như cũng trầm ngâm ưu tư, gợi nhắc về bao kỷ niệm xưa xa. Giữa một thành phố đông đúc, có lúc tắc đường đến ngộp thở, thì mỗi ô cửa này như những nốt nhạc trầm, đọng lại vẻ thi vị, thân thương

Mùa đông của cha

Ký ức sâu đậm trong chị về cha, gắn với thời tiết theo mùa. Tuổi ấu thơ của chị là những đêm hè lặng gió, oi nồng. Cha ngồi quạt đổi tay cho ba chị em đến khuya. Nhiều đêm, cha gần như không ngủ. Dạo ấy, điện là thứ xa xỉ, chỉ được dùng để thắp sáng trong mấy ngày Tết; còn lại, đèn dầu “làm bạn” với mọi nhà quanh năm, suốt tháng.

Bán thổ cẩm ở chợ Si Ma Cai. Ảnh: TUẤN LỢI

Si Ma Cai lên phố

Tháng 11-1966, xã Si Ma Cai (Lào Cai) được thành lập trên cơ sở ba thôn, gồm Phố Thầu, Phố Cũ, Phố Mới. Gọi là Phố nhưng thực chất ở đây, ngoài phiên chợ chủ nhật đông đúc, một dãy phố người Hoa ở phố cũ, Đồn Biên phòng, thì chỉ có mấy ngôi nhà gỗ dựng rải rác, vài cửa hàng mua bán đổi chác nông, lâm sản và vật dụng thiết yếu… song ba cái tên đã thể hiện khát khao lên phố của đồng bào. Qua nhiều năm xây dựng, phát triển, ngày 11-2-2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra quyết định thành lập thị trấn Si Ma Cai thuộc huyện Si Ma Cai.

Đỗ Đức Thắng (bên phải) và Hồ Văn Quang trong trận tiến công Đồi Đá, cao điểm 544 Phu Lơ, xã Cam Tuyền, Cam Lộ, Quảng Trị, tháng 4-1970. Ảnh: ĐOÀN CÔNG TÍNH

Người trong ảnh

Đến thăm các bảo tàng lịch sử ở Hà Nội và Thành cổ Quảng Trị, tôi đã nhìn thấy bức ảnh này: Hai người lính thông tin đang trong trận đánh đối mặt trực diện lực lượng địch. 

Đường hoa

Trời dịu nắng rủ tôi về làng, với những thân thương mà suốt thời tuổi thơ tôi và bạn bè đồng lứa có những trò chơi trẻ dại. Bao năm xa quê, có người phần nào “mất gốc” nhưng có những người vẫn đong đầy những ô vuông ký ức về làng như một thứ tài sản, soi mình vào hình ảnh của làng, của phố hay những cung đường đi qua để trân quý những vẻ đẹp thân thương, và để sống tốt hơn.

Vết thương

Vết thương

Trung tuần tháng 7-1972, trong trận phục kích đánh vào tiểu đoàn Bảo an của địch đến cứu viện cho đồn Tô Ma đang bị Tiểu đoàn 309 của ta bao vây, tôi bị thương khá nặng. Hôm đó, tôi vừa cầm khẩu AK bật dậy, thì một quả M79 của địch nổ phía trước tôi chừng chục mét.

Nước mắt của nữ chiến binh

Cô rất hay khóc. Tôi cũng hiểu. Dẫu cô nam tính, dẫu cô theo cách gọi cường điệu của tôi là một nữ tướng thì tướng vẫn có nước mắt.

Ngôi sao tháng bảy

Ngày tháng bảy bời bời xúc động khi cùng các bạn trẻ đoàn thanh niên của xã đến thăm mẹ. Mẹ là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, là niềm tự hào của xã Anh hùng quê tôi - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu nước, đã dâng hiến nhiều người con ưu tú cho Tổ quốc. Người dân quê chúng tôi vẫn thân thương gọi mẹ Hiền là bà Hến. Mẹ Hiền hiền lắm. Hiền như hoa trái trong vườn. Hiền như tên gọi mà mỗi khi cất lên đã chất chứa niềm nhân hậu.

Hoa ngọc lan vườn mẹ

Nhà tôi ở trong phố nên đất rất chật, mặt trước và mặt sau của ngôi nhà dài như ống tay áo, mẹ tôi cho người ta thuê để bán hàng. Ngõ dẫn vào khu giữa ngôi nhà nơi gia đình tôi sinh sống nhỏ như sợi chỉ khâu ở viền ống tay áo.

 Tượng đài Bác Hồ trên đảo Cô Tô (Quảng Ninh) Ảnh: Phạm Học

Mãi còn lưu dấu

1. Năm 1970, Tòa soạn báo Vùng mỏ chúng tôi được ông Ðỗ Thế Việt, cán bộ kháng chiến hoạt động ở khu mỏ Hồng Gai chuyển tới tấm thiếp của Bác Hồ gửi công nhân khu mỏ Hồng Gai năm 1953. Trong thư gửi kèm, ông Việt viết: "… Năm 1951, Công đoàn đặc khu Hồng Gai chúng tôi có gửi lên Việt Bắc biếu Bác Hồ một chiếc màn (quà biếu của một chị công nhân) và một bức tượng Bác bằng than đá do anh Trần Văn Mão, thợ mỏ Cẩm Phả tạc trong những ngày anh làm phu xe cuốc. Thì tháng 3-1953, Công đoàn đặc khu Hồng Gai nhận được tấm thiếp này của Bác Hồ từ Việt Bắc gửi về cảm ơn. Nay tôi thấy cần phải gửi về cho các đồng chí, mong được giới thiệu lại với công nhân khu mỏ về một bút tích quý giá của Bác…".

Nhật ký của một người Công giáo

Nhật ký của một người Công giáo

Cuối cùng tôi cũng đã tìm được nhà anh Triệu ở một phố hẻm quận Tân Bình. Sài Gòn mới được giải phóng. Thành phố tôi lần đầu đặt chân, nhưng lòng thì đã đến.

Những mùa hoa đậu biếc

Tôi nhận ra mầu tím hoa đậu biếc đang lấp lánh trong ly trà trước mặt mình. Trà hoa đậu biếc. Mầu tím ấy, thức dậy ký ức một thời tuổi thơ tôi trong vắt, bình yên.

Công suất các khu xử lý rác hiện nay chưa đáp ứng để thu gom và xử lý triệt để rác thải trên địa bàn thành phố.

Gỡ nút thắt quy hoạch, xử lý rác thải ở Hà Nội

Kỳ 2: Rà soát năng lực, đẩy nhanh tiến độ thực hiện

(Tiếp theo và hết)

Trong Quy hoạch quản lý chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt từ tháng 10-2016, đã tính đến sự phối hợp vùng trong xử lý rác thải một số tỉnh chung quanh Thủ đô. Vấn đề quan trọng nhất là sự đồng thuận của nhân dân, nỗ lực của các cơ quan chức năng, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện dự án.