Đột phá thể chế, bởi thể chế chính là “hạ tầng” của tăng trưởng!

“Những thành tựu đạt được, nhất là từ cuộc cải cách ấn tượng trong năm 2025, đã tạo đủ đà và lực để Việt Nam tự tin bước vào giai đoạn tăng tốc tiếp theo, hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược trong năm 2026, với nền tảng căn cơ, vững chắc và tầm nhìn dài hạn hơn”.

TS Huỳnh Thanh Điền
TS Huỳnh Thanh Điền

Đó là nhận định của TS Huỳnh Thanh Điền (ảnh nhỏ), giảng viên Trường đại học Nguyễn Tất Thành, trong cuộc trao đổi cùng Nhân Dân Cuối tuần.

Vai trò của Nhà nước trong mô hình tăng trưởng mới

Ông nhìn nhận thế nào về năm 2025, một năm bản lề chuẩn bị cho một giai đoạn phát triển mới cả về kinh tế-xã hội cũng như vị thế trên trường quốc tế của Việt Nam?

Thực tế, trong cả giai đoạn 2020-2025, Việt Nam đã thể hiện rõ năng lực chống chịu, thích ứng trước những cú sốc lớn chưa từng có của thế giới. Việc kiểm soát và vượt qua đại dịch Covid-19 không chỉ là một thành công về y tế, xã hội, mà còn là một kỳ tích về năng lực điều hành và sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị. Việt Nam cũng đã chủ động thích ứng biến động toàn cầu, từ xu hướng bảo hộ gia tăng, xung đột địa chính trị đến sự tái cấu trúc chuỗi cung ứng, qua đó tiếp tục duy trì vị thế là điểm đến đầu tư hấp dẫn trong khu vực.

Những thành quả này cho thấy định hướng đúng đắn của Việt Nam trong hội nhập chủ động, cải cách thể chế và xây dựng môi trường đầu tư ổn định, có khả năng dự đoán. Một điểm nổi bật là đường lối hội nhập linh hoạt, thích ứng bối cảnh bảo hộ đan xen hội nhập. Việt Nam không chỉ mở cửa theo chiều rộng, mà tập trung thúc đẩy các quan hệ đối tác chiến lược toàn diện song phương với các nền kinh tế lớn, đối tác then chốt. Cách tiếp cận này góp phần củng cố niềm tin của nhà đầu tư, tạo nền tảng thu hút dòng vốn dài hạn trong bối cảnh thế giới bất định.

Cũng trong năm 2025, Đảng ta đã ban hành một loạt nghị quyết quan trọng về việc định hướng phát triển nhiều lĩnh vực. Điều đáng nói là các nghị quyết này đều nhanh chóng được thể chế hóa thành luật, chính sách và triển khai bằng các chương trình, kế hoạch, dự án cụ thể, tạo sự chuyển động đồng bộ từ tư duy đến hành động. Dấu ấn rất rõ nét với hàng loạt cải cách mang tính căn cơ, chuẩn bị cho kỷ nguyên mới của đất nước.

Đầu tư công cũng ghi nhận những chuyển biến tích cực khi phương thức triển khai được đổi mới, nhiều dự án hạ tầng trọng điểm được khánh thành, khởi công. Những giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh hay đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công đã góp phần tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp dám đầu tư, “dám lớn” và lớn lên một cách bền vững. Đáng chú ý, ba đợt khánh thành, khởi công đồng loạt các công trình lớn trong năm 2025 cho thấy nhận thức ngày càng rõ ràng: Đột phá hạ tầng là then chốt để tạo đà tăng trưởng trước mắt và nền tảng phát triển dài hạn của đất nước.

Song song với phát triển kinh tế, an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm sâu sắc, thể hiện qua các chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát và thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội, qua đó củng cố nền tảng ổn định xã hội và niềm tin của người dân.

Tại Hội nghị Trung ương 11 của Đại hội khóa XIII, Đảng và Nhà nước đã xác định: Giai đoạn 2026-2030 cần có sự thay đổi trong mô hình tăng trưởng, để hướng đến mục tiêu tăng trưởng đạt mức hai con số. Theo ông, vai trò của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sẽ được định vị như thế nào trong mô hình tăng trưởng mới này?

Trong mô hình tăng trưởng mới, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không còn là lĩnh vực hỗ trợ, mà phải được định vị là động lực trung tâm. Vấn đề then chốt không chỉ nằm ở chủ trương, mà phải xác định đúng đâu là động lực phát triển khoa học công nghệ và cơ chế kích hoạt động lực đó như thế nào. Thực tiễn cho thấy: Sáng tạo chỉ thật sự bền vững khi được dẫn dắt bởi hai yếu tố cốt lõi là “quyền sở hữu được bảo đảm rõ ràng” và “lý tưởng phát triển gắn với lợi ích lâu dài của quốc gia, gắn với sự phát triển của đất nước”.

Trong đó, vai trò của Nhà nước được định vị lại theo hướng Nhà nước kiến tạo phát triển, tập trung đầu tư vào hạ tầng công nghệ nền tảng, đồng thời hoàn thiện hạ tầng pháp lý để các ý tưởng sáng tạo được bảo vệ quyền sở hữu, được thương mại hóa và có điều kiện lan tỏa trong toàn nền kinh tế.

Khi Nhà nước làm tốt vai trò kiến tạo, thị trường vận hành minh bạch và khu vực tư nhân được giải phóng năng lực sáng tạo, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sẽ trở thành trụ cột thực thụ của mô hình tăng trưởng mới, tạo nền tảng cho mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững.

z7342802923024-9add98874b0ea1809d0178300f49f2ff.jpg
Máy bay Boeing 787-9 của Vietnam Airlines đã thực hiện chuyến bay chở khách chính thức đầu tiên đến sân bay Long Thành ngày 19/12/2025. (Nguồn ACV)

Hướng đến mục tiêu tổ chức lại lãnh thổ kinh tế

Có ý kiến cho rằng, hiện mô hình tăng trưởng của Việt Nam vẫn chậm chuyển đổi, chủ yếu dựa vào vốn và lao động, trong khi các động lực như khoa học công nghệ, kinh tế tri thức chưa có đóng góp đáng kể. Ông nghĩ sao về vấn đề này?

Nhận định này là xác đáng và phản ánh đúng thực trạng của mô hình tăng trưởng hiện nay. Trong thời gian qua, hoạt động kinh tế của khu vực trong nước chủ yếu sôi động ở các lĩnh vực như bất động sản, tài chính, ngân hàng. Đây chỉ là sự sôi động ở bề nổi, mang tính chu chuyển vốn nhiều hơn là tạo ra giá trị gia tăng thực chất. Trong khi đó, khu vực sản xuất chủ yếu do khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đảm trách. Doanh nghiệp trong nước, vốn được xem là “trái tim của nền sản xuất”, lại có dấu hiệu yếu dần và chưa có được vai trò trung tâm trong chuỗi giá trị.

Để hóa giải tình trạng này, trọng tâm chính sách cần được đặt vào việc phát triển hạ tầng, hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng hỗ trợ trực tiếp cho sản xuất trong nước. Khi khu vực này được củng cố và trở nên mạnh hơn, họ sẽ có đủ năng lực để kết nối hiệu quả với khu vực FDI và kinh tế nhà nước, từ đó hình thành một nền tảng sản xuất vững chắc, cân bằng hơn cho toàn nền kinh tế, nâng cao năng lực tự chủ, phát huy tốt hơn các lợi thế từ hội nhập kinh tế quốc tế.

Cách tiếp cận này không chỉ giúp phục hồi, nâng cao năng lực sản xuất trong nước, mà còn tạo ra nguồn thu bền vững cho ngân sách trong trung và dài hạn.

Đứng trước yêu cầu phát triển mới, Việt Nam phải làm gì để có thể phát triển nhanh, bền vững và hiện thực hóa mục tiêu chiến lược đã đề ra, thưa ông?

Thế giới biến động sâu sắc và cạnh tranh phát triển chủ yếu dựa vào năng lực nội sinh. Việt Nam muốn phát triển nhanh và bền vững thì phải xác lập một mô hình tăng trưởng mới theo hướng đột phá về chất, chứ không chỉ mở rộng về lượng.

Tôi cho rằng có một số việc then chốt cần làm. Trước hết là đột phá thể chế, bởi thể chế chính là “hạ tầng” của tăng trưởng. Khi môi trường thể chế minh bạch, kỷ luật thực thi nghiêm, doanh nghiệp mới dám đầu tư dài hạn, dám đổi mới và dám lớn. Tiếp đến là tái cấu trúc không gian phát triển theo tư duy liên kết vùng và tổ chức lại lãnh thổ kinh tế.

Việc sắp xếp đơn vị hành chính lãnh thổ và kiện toàn mô hình chính quyền địa phương hai cấp là tiền đề quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn là phải biến cải cách đó thành năng lực điều phối vùng, hình thành các cực tăng trưởng mới có tính bổ trợ lẫn nhau. Đồng thời, tạo đột phá hạ tầng mở đường cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong sản xuất; kích hoạt động lực nội sinh, đặt doanh nghiệp trong nước vào trung tâm của chiến lược phát triển. Mặt khác, chúng ta phải thống nhất và nhất quán quan điểm: Coi khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực trung tâm của mô hình tăng trưởng mới, gắn trực tiếp với bài toán nâng năng suất và tạo giá trị mới.

Ngay trong những ngày cuối năm 2025, Trung tâm tài chính quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đã chính thức được đi vào hoạt động. Đây là một cấu phần chiến lược trong quá trình tái định vị vai trò của Việt Nam trong mạng lưới tài chính khu vực và toàn cầu, nâng tầm hội nhập tài chính và vị thế phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới.

Với một mô hình tăng trưởng nhanh, bền vững và bao trùm, Việt Nam có thể hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược trong năm 2026 và những năm tiếp theo. Quan trọng là nếu người dân được đặt ở vị trí trung tâm, vừa là mục tiêu cuối cùng, vừa là động lực của mô hình tăng trưởng mới, đất nước sẽ có đủ nền tảng để phát triển nhanh, bền vững và tự tin hơn trong một thế giới nhiều biến động.

Trân trọng cảm ơn ông!

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng hai con số trong năm 2026 và những năm tiếp theo, Việt Nam buộc phải thực hiện một sự chuyển đổi căn bản trong mô hình tăng trưởng, từ phát triển theo chiều rộng dựa chủ yếu vào mở rộng vốn vay, khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ sang phát triển theo chiều sâu dựa trên nâng cao năng suất, tạo ra giá trị mới và thúc đẩy đổi mới sáng tạo”.

Có thể bạn quan tâm

CẢI CÁCH, BẢN LĨNH VÀ NHÂN VĂN

CẢI CÁCH, BẢN LĨNH VÀ NHÂN VĂN

Lời tòa soạn - Năm 2025 dần đi đến những ngày cuối cùng, đất nước đang hướng tới một năm mới, một giai đoạn phát triển mới được khai mở từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Với sự đóng góp tích cực từ xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như: lúa gạo, hải sản... dự kiến tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2025 của Việt Nam có thể đạt ngưỡng kỷ lục hơn 900 tỷ USD.

Vị thế, vận hội cho kinh tế Việt Nam cất cánh

Năm 2026 đang đến là thời điểm mà năng lực đổi mới sáng tạo, tri thức và kết nối chuỗi giá trị toàn cầu trở thành trọng tâm, để Việt Nam có thể vươn lên và khẳng định vị thế trên trường quốc tế.

Người dân Hội An (thành phố Đà Nẵng) nỗ lực vượt qua lũ lịch sử. (Ảnh Tùng Lâm)

Nhìn lại một năm thiên tai cực đoan

Năm 2025 có thể được xem là năm có tần suất xảy ra thiên tai nhiều nhất từng được ghi nhận từ xưa đến nay, với phạm vi xảy ra trên diện rộng từ miền bắc vào miền trung, gây ra những thiệt hại trầm trọng về kinh tế và nhân mạng.

Hạ tầng giao thông hiện đại, kết nối đồng bộ sẽ tạo cú hích thu hút FDI vào miền Tây. Ảnh: Phương Bằng

Mảng sáng đồng bằng trên bản đồ quốc gia

Những dự án hạ tầng quy mô lớn đồng loạt về đích cùng các công trình trọng điểm được khởi công dịp cuối năm 2025 đang mở ra những hướng đi mới cho Đồng bằng sông Cửu Long, khẳng định vị thế vùng trên bản đồ phát triển quốc gia.

Phối cảnh Khu đô thị thông minh Tiến Xuân - một mô hình đô thị thông minh thí điểm của Hà Nội, găn kết, hỗ trợ Khu Công nghệ cao Hòa Lạc.

Quản trị đô thị hiện đại, thích ứng biến đổi khí hậu

Quá trình đô thị hóa và chuyển đổi số tại Việt Nam đang diễn ra mạnh mẽ, song điều này cũng kéo theo nhiều thách thức về hạ tầng quá tải, môi trường nhiễm, gia tăng rủi ro thiên tai, biến đổi khí hậu... Điều đó đặt ra yêu cầu cấp bách về đổi mới tư duy, phương thức quy hoạch, quản trị trong phát triển đô thị.

Đề án đặt mục tiêu từng bước mở rộng quyền lợi và nâng cao chất lượng, hiệu quả chăm sóc sức khỏe nhân dân. (Ảnh: ĐẠT THÀNH)

Bảo đảm nguồn lực và điều kiện thực hiện

Bộ Y tế đang chủ trì xây dựng đề án miễn viện phí nhằm từng bước giảm gánh nặng tài chính cho người dân, đặc biệt với các nhóm yếu thế, đồng thời nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe.

Nhiều bệnh viện đang tăng cường ứng dụng công nghệ và số hóa dữ liệu. (Ảnh Khoa Đăng)

“Lá chắn” ngăn chặn gian lận, trục lợi bảo hiểm y tế

Chỉ khi đưa dữ liệu cũng như quy trình chuyển đổi số vào vị trí nền tảng, nhằm biến công nghệ thành “lá chắn” bảo vệ Quỹ Bảo hiểm y tế trước các hành vi gian lận, thì các cơ quan quản lý mới có thể giảm thiểu tối đa tình trạng trục lợi đã, đang xuất hiện tại nhiều địa phương trên cả nước thời gian qua.

Người dân đến khám bệnh tại Bệnh viện Thanh Nhàn (Hà Nội). (Ảnh Thế Đại)

Rà soát, nâng cao quyền lợi người bệnh

Tám năm qua, danh mục thuốc bảo hiểm y tế thanh toán hầu như không thay đổi. Mới đây, Bộ Y tế đề xuất bổ sung 76 thuốc mới, trong đó có 28 thuốc điều trị ung thư và điều hòa miễn dịch, bao gồm 22 thuốc điều trị đích, là nhóm thuốc có chi phí đắt đỏ hiện nay.

Trong dự án thí điểm "Nâng cấp UCS", dịch vụ nha khoa tại các phòng khám được người dân đánh giá cao.

“Chìa khóa” chuyển đổi số

Trong khu vực, Thái Lan là quốc gia đang thử “mở khóa” chương trình miễn viện phí cơ bản thông qua chuyển đổi số và hợp tác công-tư, và đã đạt được những thành tựu bước đầu đáng chú ý.

Ảnh: Thành Đạt

Không gian sống cho tương lai

Diện mạo của từng ngôi làng, từng khu đô thị, từng địa phương, thành phố đã và đang trải qua nhiều biến đổi mạnh mẽ cùng tầm nhìn mới trong các quy hoạch cho tương lai.

Một dự án nhà ở xã hội tại Khu đô thị Pháp Vân-Tứ Hiệp (Hà Nội) bị chậm tiến độ.

Tiết kiệm, nhưng phải bảo đảm tiện nghi

Phát triển nhà ở xã hội bền vững, chất lượng với không gian sống tiết kiệm nhưng vẫn đầy đủ tiện nghi cho người có thu nhập thấp, không chỉ là yêu cầu cấp bách trước mắt mà còn hướng tới mục tiêu bảo đảm quyền có chỗ ở của người dân.

Một hạng mục công trình công giáo với màu mộc mạc của vật liệu gạch, ngói, gỗ, do KTS Lê Minh Hoàng và cộng sự thiết kế, giám sát thi công.

Tái sinh những giá trị tinh thần cốt lõi

Để tiếp cận kiến trúc theo hướng bền vững, cần có sự tích hợp giữa tính toàn cầu và tính địa phương, nhằm tạo nên sự cân bằng ổn định trong bối cảnh hiện nay (*)

Copenhagen còn được gọi là thành phố của xe đạp. (Nguồn Visitcopenhagen)

Xanh hóa đô thị: xu hướng tất yếu

Thực tế những năm gần đây, các biến động khí hậu cho thấy mô hình quy hoạch dựa vào bê-tông hóa, mở rộng đường sá và giao thông cơ giới đang bộc lộ giới hạn.

Mẫu nhà dành cho khu vực ngập lụt miền Tây Nam Bộ của nhóm thiết kế do KTS Nguyễn Quốc Hoàng chủ trì. (Nguồn: Tạp chí Kiến trúc)

Hóa giải những thách thức

Những mái nhà ngói ba gian hai chái nhuốm màu rêu phong lấp ló bên rặng tre làng và bờ ao biêng biếc ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ đang ngày càng thưa vắng dần. Lũy tre và bờ ao bao quanh làng dần biến mất, nhường chỗ cho các con đường bê-tông dài rộng, các tòa nhà hai, ba tầng mái tôn theo kiểu dáng nhà mặt phố.

Không gian bên trong Túp House (tỉnh Thanh Hóa) thoáng mát, gọn gàng, hòa hợp thiên nhiên.

Kiến thiết với tâm thế mới

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số kiến trúc sư làm việc ở những lĩnh vực chuyên môn khác nhau, từ quy hoạch tổng thể cùng xây dựng hệ thống lý thuyết mang giá trị nền tảng, tới thực hành thiết kế kiến trúc.

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.