Dẻo thơm bánh tro

Bánh tro là món ăn truyền thống được đồng bào dân tộc Nùng ở thôn Đăk Xuân, xã Đăk Ui, tỉnh Quảng Ngãi lưu giữ và truyền lại từ đời này sang đời khác. Không cầu kỳ về hình thức, cũng không có nhân như nhiều loại bánh nếp khác, nhưng bánh tro lại hấp dẫn bởi hương vị độc đáo, cách chế biến kỳ công và nét văn hóa ẩm thực rất riêng

Những mẻ bánh tro mới ra lò của đồng bào dân tộc Nùng tại Tây Nguyên.
Những mẻ bánh tro mới ra lò của đồng bào dân tộc Nùng tại Tây Nguyên.

Theo bà Luân Thị Bay, người cao tuổi trong thôn Đăk Xuân, bánh tro là món ăn không thể thiếu trong các dịp lễ, Tết quan trọng như Tết Nguyên đán, rằm tháng bảy, Tết Đoan ngọ. Khi bà con người Nùng di cư theo diện kinh tế mới, từ tỉnh Cao Bằng vào vùng đất này, món bánh tro cũng theo chân họ vào Tây Nguyên và trở thành một phần trong đời sống văn hóa cộng đồng.

Điều làm nên sự khác biệt của bánh tro so với các loại bánh nếp khác nằm ở nguyên liệu đặc biệt trong quá trình chế biến. Đó là nước tro được làm từ củi đốt của cây “mác thết” (theo tên gọi của người Nùng). Đây là loại cây thân gỗ, lõi đỏ, quả nhỏ màu vàng, được xem là cây thuốc. Sau khi đốt thành tro, người dân đem tro nén chặt trong rổ, đổ nước từ từ lên trên. Nước sau khi chảy qua lớp tro sẽ có mầu vàng nhạt và mùi thơm đặc trưng. Đây là công đoạn đòi hỏi nhiều kinh nghiệm. Nếu nén tro không kỹ hoặc dùng loại củi khác, nước tro sẽ không đạt yêu cầu về mùi và mầu sắc.

Bà Bay cho biết, nước tro chỉ ngon khi người làm có tay nghề. Nếu dùng củi thông thường, nước thu được sẽ nhạt, không thơm và không có mầu. Nước tro sau khi lọc kỹ sẽ được pha với nước lọc theo tỷ lệ phù hợp, thêm một ít muối rồi đun sôi và để nguội. Tùy theo kinh nghiệm của từng gia đình, tỷ lệ pha sẽ khác nhau. Nếu nước tro quá đặc, bánh sẽ nồng và khó ăn; nếu pha quá loãng, hương vị đặc trưng sẽ nhạt.

Gạo nếp dùng làm bánh phải là nếp nguyên chất, không pha lẫn tẻ. Sau khi vo sạch hai đến ba lần, người làm sẽ đổ hỗn hợp nước tro đã được lọc cặn vào, ngâm từ ba đến sáu giờ. Trong quá trình ngâm, hạt gạo sẽ dần chuyển sang mầu vàng, mềm và dẻo hơn. Đây là bước quan trọng tạo nên mầu sắc và độ dẻo của bánh sau khi luộc.

Một điểm đặc biệt nữa trong quy trình làm bánh tro của người Nùng là sử dụng lá đót để gói bánh. Loại lá này thường mọc dại ven rừng, được hái vào sáng sớm khi còn mềm, chưa bị ánh nắng làm khô hoặc cuộn lại. Lá sau khi hái về được rửa sạch, trụng nước sôi để tăng độ dẻo và giúp dễ gói. Theo bà Bay, chỉ có lá đót mới giữ được hương vị đặc trưng của bánh tro. Nếu gói bằng lá dong hoặc lá chuối, bánh sẽ không còn mùi thơm của nước tro, mất đi cái hồn vốn có.

Sau khi gói xong, bánh được thả vào nồi nước lạnh. Những chiếc bánh chìm xuống đáy sẽ được luộc, còn bánh nổi thường bị sống, không chín đều, nên phải để riêng. Bánh tro không giống như các loại bánh nếp thông thường chỉ cần luộc từ một đến hai giờ. Người Nùng thường luộc bánh tro suốt mười bảy giờ. Trong quá trình này, tuyệt đối không châm thêm nước mới, bởi như vậy sẽ làm giảm độ đậm đà và ảnh hưởng đến mùi vị của bánh.

Sau khi vớt bánh, người làm phải để bánh ráo nước tự nhiên. Khi bóc lớp lá đót, bánh hiện ra mầu vàng óng đặc trưng. Dù không có nhân, bánh tro vẫn dẻo mềm, hương vị thanh mát, bùi nhẹ, ngậy béo. Vị thơm thoang thoảng của nước tro quyện cùng nếp tạo nên sự tinh tế mà không món bánh nào có thể thay thế.

Bà Bay chia sẻ thêm, trong nhiều năm làm bánh, chưa khi nào bà thấy món bánh tro vơi đi sức hút. Mỗi dịp lễ, Tết, dù bận rộn đến đâu, các gia đình người Nùng trong thôn vẫn cùng nhau chuẩn bị nguyên liệu để làm vài chục chiếc bánh, chia cho con cháu dâng cúng tổ tiên. Đó không chỉ là một món ăn truyền thống mà còn là biểu tượng gắn kết cộng đồng, gìn giữ bản sắc dân tộc.

Với người dân tộc Nùng ở thôn Đăk Xuân, bánh tro không chỉ là một phần của ẩm thực mà còn là sợi dây kết nối với quê hương, là ký ức, là nét đẹp văn hóa. Qua từng lớp lá đót, từng hạt gạo nếp ngả vàng, chiếc bánh nhỏ bé ấy đã kể lại câu chuyện về sự gìn giữ, vun đắp những giá trị truyền thống trong đời sống thường ngày của đồng bào nơi đây.

Có thể bạn quan tâm

Thế hệ trẻ dân tộc Brâu với điệu chiêng Bơm pa rar.

Tiếng chiêng Bơm pa rar nơi ngã ba biên giới

tiếng chiêng Bơm pa rar (có nghĩa là mừng hội) của dân tộc Brâu tại làng Đắk Mế (xã Bờ Y, tỉnh Quảng Ngãi) ngân vang, mang theo khát vọng về mùa màng bội thu, cuộc sống thanh bình và tinh thần đoàn kết cộng đồng bền chặt.

Thiếu nữ Chu Ru với sản phẩm gốm truyền thống.

Độc đáo nghề gốm của người Chu Ru

Khi nhiều buôn làng ở Tây Nguyên từng bao đời du canh, du cư thì người Chu Ru làng Krăng Gọ, xã Quảng Lập, tỉnh Lâm Đồng chỉ ở dưới chân núi T'rôm Ụ. Loại đất đặc biệt, nguồn nước trong lành và những bàn tay tài hoa ở làng quê này đã góp phần tạo ra nghề thủ công truyền thống quý giá-nghề gốm.

Ngày hội trên cao nguyên Di Linh.

Độc đáo nghi lễ của người Cơ Ho Srê

Trên cao nguyên Di Linh (Lâm Đồng) điệp trùng đồi núi, người Cơ Ho Srê từ bao đời gắn bó với cây lúa nước. “Srê” nghĩa là ruộng, nên họ tự gọi mình là “cau Cơ Ho Srê” - người Cơ Ho làm ruộng nước. So với nhiều tộc người khác, người Cơ Ho Srê sớm biết dẫn nước từ suối về ruộng, khai mở nền văn minh lúa nước giữa lòng Tây Nguyên.

Già Siu Klah (giữa) và các thành viên Câu lạc bộ cồng chiêng làng Dek. (Ảnh ĐỒNG LAI)

Người kể chuyện cồng chiêng

Giữa những ngọn đồi trập trùng của xã Ia Hrú, tỉnh Gia Lai, có người đàn ông lặng lẽ nhưng bền bỉ gìn giữ một phần hồn cốt của văn hóa Tây Nguyên. Ông là già làng Siu Klah, người Jrai, sống tại làng Dek.

Ném còn thường được tổ chức vào dịp Tết Nguyên đán, lễ hội Xuân.

Biểu tượng văn hóa dân tộc Tày ở Tây Nguyên

Một trong những giá trị tiêu biểu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Tày tại xã biên giới Ia Đal, tỉnh Quảng Ngãi là trò chơi ném còn, (tiếng Tày gọi là "tung còn"), trò chơi dân gian truyền thống có từ lâu đời, phổ biến trong các lễ hội Xuân của người Tày, thể hiện ước vọng sinh sôi nảy nở, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

Thiếu nữ Cơ Ho với gùi hoa truyền thống.

Gùi hoa - Biểu tượng văn hóa người Cơ Ho

“Đung đưa, đung đưa/Chiếc gùi đung đưa…”, âm điệu ca khúc H'Zen lên rẫy của nhạc sĩ Nguyễn Cường, khiến người nghe liên tưởng đến cô gái miền sơn cước duyên dáng cùng nhịp gùi mỗi sớm mai lên rẫy.

Chủ lễ thực hiện nghi thức tưới rượu cần lên cây Blang và các vật cúng tế trong Lễ Tăm Blang m’prang bon của người Mnông Pré, Nam Nung, Lâm Đồng.

Lễ Tăm Blang m’prang bon của người Mnông

Theo ấn định thời gian, cứ từ 3 đến 5 năm, đồng bào Mnông Pré ở xã Nam Nung (Lâm Đồng) lại cùng nhau tổ chức Lễ Tăm Blang m’prang bon (Lễ rào bon, trồng cây Blang) để cảm tạ thần Blang đã bảo vệ bon làng, đồng thời cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt bội thu.

Bếp lửa trong không gian nhà dài người Mạ ở Lâm Đồng.

Bếp lửa trong đời sống người Mạ

Giữa đại ngàn nam Tây Nguyên vẫn tồn tại ngôi nhà dài truyền thống của người Mạ, tại khu vực Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Bà Ka Dít đã gần 70 mùa rẫy là chủ nhân cũng không nhớ nổi ngôi nhà khai sinh từ lúc nào.

Phục dựng nghi thức Lễ gọi hồn lúa của người M’nông Gar tại Liên hoan Văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk lần thứ III năm 2024.

Lễ gọi hồn lúa của người M’nông Gar

Cũng như hầu hết các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, người Mnông Gar ở tỉnh Đắk Lắk tin rằng, trong hạt lúa có linh hồn, khi thần lúa ở lại với gia đình thì mùa màng bội thu, nếu vi phạm các điều kiêng kỵ thì thần lúa sẽ bay đi, làm cho lúa xấu, bị sâu bọ, mất mùa…

Đội nghệ nhân dân tộc Hrê, thôn Vi Pờ Ê, xã Kon Plông tham gia biểu diễn tại một sự kiện văn hóa.

Say đắm điệu Ta lêu trên đỉnh đèo Vi Ô Lắc

Trên miền cao nguyên Kon Plông hùng vĩ, điệu Ta lêu của người Hrê ngân vang, hòa quyện vào không gian bao la của núi rừng Trường Sơn Tây. Giai điệu ấy ghi dấu ấn về một tộc người với văn hóa độc đáo, trở thành minh chứng sống động cho sự giao thoa giữa thiên nhiên và con người, giữa truyền thống và hiện đại.

Ngôi nhà sàn cổ 140 tuổi của "Vua săn voi" Y Thu Knul ở Bản Đôn, xã Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

Độc đáo nhà sàn cổ của "Vua voi"

Ngôi nhà sàn cổ của “Vua voi” Y Thu Knul (1828 -1938), người được mệnh danh là ông tổ của nghề săn và thuần dưỡng voi rừng nằm tại Bản Đôn, xã biên giới Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk. Đây là một điểm tham quan không thể bỏ qua đối với du khách khi tới Buôn Đôn huyền thoại với nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng.

Hấp dẫn ẩm thực của người Cơ Ho dưới chân núi Lang Biang.

Hương vị núi rừng dưới chân núi Lang Biang

Chúng tôi đến vùng đất dưới chân núi Lang Biang, dạo chơi trên các buôn làng Đăng Gia, Bon Đưng, Bnơh… trước thuộc huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng; giờ là các tổ dân phố thuộc phường Lang Biang-Đà Lạt và may mắn được hòa vào không gian Hội thi ẩm thực và rượu cần Lang Biang.

Nghệ nhân người Chu Ru truyền dạy cách thổi kèn bầu cho lớp trẻ.

Kèn bầu của người Chu Ru

Cùng với các nhạc cụ như trống, đồng la, r’tông, k’wao… người Chu Ru ở Lâm Đồng còn có kèn bầu (rơkel) với điệu thức khoan thai, tỉ tê như chuyển tải nỗi lòng của người chơi, hay chất chứa khát vọng của buôn làng hòa vào bản giao hưởng giữa đại ngàn.

Nghệ nhân Ama Hloan ở buôn Akô Dhông, phường Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk giới thiệu nhạc cụ Đinh Năm với du khách.

Đinh Năm - nhạc cụ độc đáo của người Ê Đê

Trong các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, người Ê Đê có kho tàng âm nhạc phát triển, giàu bản sắc, đa dạng với nhiều hình thức diễn xướng. Đặc biệt, nhạc cụ của người Ê Đê rất phong phú như cồng, chiêng, trống, sáo vỗ, khèn, đàn…; trong đó, Đinh Năm là một loại nhạc cụ độc đáo, được nhiều người yêu thích.

Nghi lễ đón khách của bon chủ nhà mở đầu cho Lễ mừng mùa của đồng bào M'nông ở xã Quảng Trực.

Lễ mừng mùa của người M'nông ở Quảng Trực

Sau khi kết thúc mùa vụ, người M'nông ở xã Quảng Trực (tỉnh Lâm Đồng) tổ chức Lễ mừng mùa để tạ ơn trời đất, các vị thần linh đã giúp cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu. Đây cũng là dịp để người M'nông sum họp, gắn kết và lan tỏa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình.

Đồng bào dân tộc Ha Lăng phục dựng lễ Pơ Jrao.

Pơ Jrao - Lễ cúng mừng lúa thóc đầy kho

Giữa đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ, nơi chân dãy Sạc Ly sừng sững, người Ha Lăng ở xã Rờ Kơi, tỉnh Quảng Ngãi mãi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc mình.

Di tích lịch sử Sở Trà Bu Prăng.

Độc đáo di tích lịch sử Sở Trà Bu Prăng

Di tích lịch sử Sở Trà Bu Prăng, nằm trong khuôn viên của Trung đoàn 726, xã Quảng Trực (tỉnh Lâm Đồng), là một ngôi nhà cổ, được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp. Theo các chuyên gia, nhà nghiên cứu: Trước kia, nơi đây là đồn điền Sở Trà Bu Prăng do người Pháp xây dựng.

Cây Kơ nia trong khuôn viên bảo tàng tỉnh Gia Lai (cũ).

Đi tìm Bóng cây Kơ nia

Cây Kơ nia (có nơi gọi là cây cầy, cây cốc) có tên khoa học là Irvingia malayana, có nguồn gốc từ châu Phi và Đông Nam Á.

Món ăn ếch nấu lồ ô thường được người Giẻ Triêng nấu trên bếp lửa.

Đặc sản truyền thống của người Giẻ Triêng

Mang đậm hương vị núi rừng, món ếch nấu lồ ô là một trong những nét ẩm thực truyền thống độc đáo của đồng bào Giẻ Triêng tại xã Dục Nông, tỉnh Quảng Ngãi mới. Món ăn này còn thể hiện lối sống gắn bó với thiên nhiên và sự sáng tạo trong chế biến.

Sưu tập Đàn đá Đắk Sơn đang được trưng bày, lưu giữ, bảo vệ, bảo quản tốt theo quy trình, quy định tại Bảo tàng tỉnh Đắk Nông.

Đàn đá Đắk Sơn - Bảo vật mang giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa

Đàn đá Đắk Sơn là hiện vật gốc có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, mang tính độc bản, độc đáo điển hình. Với niên đại xác thực, được chế tác tại chỗ và có nguồn gốc bản địa, đàn đá không chỉ sở hữu giá trị lịch sử và văn hóa sâu sắc mà còn là một sưu tập nhạc cụ tiêu biểu và cổ xưa nhất.

Phụ nữ Xơ Đăng chuẩn bị nguyên liệu để chế biến món Păng Chôh.

Gùi măng trên vai, hương rừng trong bếp

Giữa những cánh rừng bạt ngàn của xã Đăk Ui (huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum), nơi người Xơ Đăng sinh sống bao đời, có một món ăn mộc mạc nhưng đầy sức hút, không chỉ níu giữ hương vị núi rừng mà còn gói trọn cả một phần ký ức, nếp sống và tâm hồn bao thế hệ. Người Xơ Đăng gọi nó là “Păng Chôh”, có nghĩa là măng chua.

Người phụ nữ Ê Đê bên khung dệt vải thổ cẩm.

Nghệ thuật trang trí trên thổ cẩm của người Ê Đê

Hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đều có nghề dệt thổ cẩm, nhưng nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Ê Đê có nét độc đáo và riêng biệt, chứa đựng những giá trị nghệ thuật, lịch sử, văn hóa sâu sắc.

Nghi thức trong lễ báo hiếu của dân tộc Mnông ở huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng.

Nét đẹp lễ báo hiếu của người Mnông

Lễ báo hiếu là dịp để người Mnông thể hiện lòng tri ân sâu sắc, sự biết ơn đối với công lao sinh dưỡng, giáo dục của đấng sinh thành. Đây cũng là dịp gắn kết tình thân giữa các thành viên trong gia đình, những người đồng tộc và củng cố mối quan hệ trong cộng đồng người Mnông.