1. Nguồn gốc lịch sử
Về nguồn gốc, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng người Tà Ôi gốc ở Lào, đã di cư sang Việt Nam khoảng vài trăm năm nay. Một số người Tà Ôi cao niên lại cho rằng người Tà Ôi có nguồn gốc tại chỗ.
Tên gọi khác: Tà Ôi, Pa Cô, Tà Uốt, KanTua, Pa Hy...
Nhóm địa phương: Tà Ôi, Pa Cô, Pa Hy.
2. Dân số
Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019, dân tộc Tà Ôi có 52.356 người, dân số nam là 26.201 người, dân số nữ là 26.155 người, 92,5% dân sống tại nông thôn.
Các hoạt động văn hóa cộng đồng người Tà Ôi (Ảnh: Báo Dân tộc và Phát triển) |
3. Phân bố địa lý
Chủ yếu ở hai huyện Đakrông và Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị và huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.
4. Ngôn ngữ:
Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Cách đây mấy chục năm, chữ viết ra đời trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh để tạo ra bộ vần, lấy tiếng Pa Cô làm chuẩn.
Giáo dục: Theo điều tra 53 Dân tộc thiểu số tháng 4/2019, Tỷ lệ người Tà Ôi từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông: 78,4%; Tỷ lệ người đi học chung cấp tiểu học: 99,8%; Tỷ lệ người đi học chung cấp trung học cơ sở: 83,1%; Tỷ lệ người đi học chung cấp trung học phổ thông: 52,8%; Tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường: 17,8%. Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, viết chữ dân tộc mình: 6,3%.
Một người phụ nữ Tà Ôi dệt zèng (vải thổ cẩm) theo phương pháp thủ công lâu đời (Ảnh: Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam) |
5. Đặc điểm chính
Trang phục: Nữ mặc váy ống loại ngắn và áo, hoặc váy loại dài che luôn cả từ ngực trở xuống, có nơi dùng thắt lưng sợi dệt, năm quấn khố mặc áo, thường hay ở trần. Tục cà răng, xăm trên da và đeo trang sức làm căng rộng lỗ xâu ở dái tai chỉ còn số ít ở các cụ già.
Nhà ở: Nhà truyền thống của người Tà Ôi là nhà sàn dài, trước kia dài có khi hàng trăm mét, gồm nhiều cặp vợ chồng cùng các con (gọi là "bếp"). Giữa các bếp trong làng thường có quan hệ bà con thân thuộc với nhau. Mái nhà uốn tròn ở 2 đầu hồi, trên đỉnh dốc có khau cút nhô lên. Trong nhà, mỗi "bếp" (gia đình riêng) đều có buồng sinh hoạt riêng.
Quan hệ xã hội: Người Tà Ôi sống theo tập tục cổ truyền, trọng người già, tin theo "già làng", quý trẻ em không phân biệt trai hay gái. Mỗi làng bao gồm người của các dòng họ khác nhau, từng dòng họ có người đứng đầu, có kiêng cữ riêng và tên gọi riêng. Làng là đơn vị tổ chức xã hội cơ bản và tự quản trong xã hội cổ truyền.
Cưới xin: Trai gái lớn lên sau khi đã cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên thì được tìm hiểu nhau và lấy vợ, lấy chồng. Việc cưới hỏi do nhà trai chủ động. Nhà gái cho con đi làm dâu và được nhận của cải dẫn cưới gồm cồng, chiêng, ché, nồi đồng, trâu, lợn… Một số người giàu có không chỉ có một vợ.
Ma chay: Bãi mộ chung của làng chỉ chôn những người chết bình thường. Có tục "chia của" cho người chết như ở các dân tộc. Việc mai táng sau khi chết là tạm thời. Vài năm sau khi chôn, tang gia tổ chức lễ cải táng, đưa hài cốt vào quan tài mới và chôn trong bãi mộ, bên cạnh những thân nhân quá cố từ trước. Khi đó, nhà mồ được trang trí đẹp bằng chạm khắc và vẽ.
Nghi thức cúng trong nhà của Lễ cầu mùa của người Tà Ôi (Ảnh: Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam) |
Thờ cúng: Người Tà Ôi tin mọi vật đều có siêu linh, từ trời, đất, núi, rừng, suối nước, cây cối cho đến lúa gạo, con người, con vật đều có "thần" hoặc hồn. Nhiều làng còn thờ cúng chung vật "thiêng" là hòn đá, cái vòng đồng, chiêng, ché... dị dạng hoặc có xuất xứ khác lạ, được coi là có quan hệ huyền bí đối với cuộc sống của làng.
Lễ tết: Có rất nhiều lễ cúng, liên quan đến sức khoẻ, tài sản, việc ngăn chặn dịch bệnh, việc làm rẫy... Những lễ lớn đều có đâm trâu tế thần và trở thành ngày hội trong làng. Gắn với chu kỳ canh tác có những lễ thức quan trọng nhằm cúng cầu thần lúa, mong bội thu, no đủ. Tết cổ truyền vào thời kỳ nghỉ ngơi sau khi tuốt lúa, trước mùa rẫy mới.
Văn nghệ: Vốn tục ngữ, ca dao, câu đố, truyện cổ khá phong phú. Dân ca có điệu Calơi đối đáp khi uống rượu, hội hè, điệu Ba boih hát một mình khi lao động hoặc đi đường, điệu Roih gửi gắm, dặn dò đối với các bậc con cháu nhân các dịp vui vẻ, điệu Cha chap dành cho tình cảm trai gái của thanh niên...
Nhạc cụ gồm nhiều loại: cồng, chiêng, tù và sừng trâu hay sừng dê, khèn 14 ống nứa, sáo 6 lỗ, nhị vừa kéo vừa điều khiển âm thanh bằng miệng, đàn Ta lư...
Một hoạt động sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Tà Ôi (Ảnh: THÀNH ĐẠT) |
6. Điều kiện kinh tế
Làm rẫy, trồng lúa rẫy là nguồn sống chính của người Tà Ôi. Cách thức canh tác tương tự như ở các tộc Cơ Tu, Bru - Vân Kiều. Ruộng nước đã phát triển ở nhiều nơi. Bên cạnh các cây trồng truyền thống, trong những năm gần đây, người Tà Ôi còn trồng thêm một số cây trồng mới như cà phê, tre, lồ ô, mây, keo,... và chuyển sang chăn nuôi gia súc gia cầm, đào ao thả cá thương phẩm. Người Tà Ôi có nghề dệt zèng (thổ cẩm truyền thống) từ lâu đời, sản phẩm được các dân tộc láng giềng ưa chuộng (nhất là y phục có đính hoa văn bằng chì và cườm trắng). Quan hệ hàng hoá với bên Lào cũng khá quan trọng.
Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019: Tỷ lệ hộ nghèo: 35,4%; Tỷ lệ hộ cận nghèo: 14,9%; Tỷ lệ thất nghiệp: 1,63%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ: 13,5%; Tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực phi nông nghiệp: 34,3%; Tỷ trọng lao động làm công việc quản lý hoặc CMKT bậc cao và trung: 5,3%; Tỷ lệ hộ làm nghề thủ công truyền thống: 5,97%.
● Français: L’ethnie Tà Ôi
● English: Ta Oi ethnic minority group