Người Gié triêng. (Ảnh: Thành Đạt)
Người Gié triêng. (Ảnh: Thành Đạt)

Dân tộc Gié Triêng

NDO - Người Gié Triêng luôn gắn bó với quần sơn Ngọc Linh và có nhiều đóng góp trên chặng đường khai phá, dựng xây, bảo vệ và phát triển vùng đất này, đồng thời vẫn gìn giữ được nhiều bản sắc văn hóa cổ truyền.

1. Nguồn gốc lịch sử:

Nghiên cứu về lịch sử dân tộc Gié Triêng tại Việt Nam cho thấy dân tộc này có nguồn gốc từ Lào. Nhưng tổ tiên người Gié Triêng đã sinh sống lâu đời ở vùng quanh quần sơn Ngọc Linh, cư trú chủ yếu ở hai tỉnh Kon Tum và Quảng Nam. Ngoài tên gọi Gié Triêng, dân tộc này còn mang những tên gọi khác như Ca-tang, Đoàn, Xóp, Brila (ở huyện Đắk Glei, tỉnh Kon Tum) và Mơnoong hay Pơnoong (ở tỉnh Quảng Nam).

Dân tộc Gié Triêng gồm nhiều nhóm địa phương như Gié (Giẻ), Triêng, Ve, Bhnoong... hợp thành.

2. Phân bố địa lý:

Người Gié Triêng cư trú chủ yếu ở hai tỉnh Kon Tum và Quảng Nam.

Dân tộc Gié Triêng ảnh 1
Một già làng người Gié Triêng.

3. Dân số, ngôn ngữ:

- Dân số: Theo số liệu điều tra 53 dân tộc thiểu số 1/4/ 2019, tổng dân số người Gié Triêng: 63.322 người; dân số nam: 31.152 người; dân số nữ: 32.170 người; quy mô hộ: 3.8 người/hộ; tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn: 91.1%.

- Ngôn ngữ: Ngôn ngữ của người Gié Triêng thuộc nhóm Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi với tiếng Xơ Ðăng, Ba Na. Trong thời kỳ trước năm 1975, người Gié Triêng đã có chữ viết với cấu tạo bộ vần dựa trên chữ cái La-tinh.

4. Đặc điểm chính:

- Thiết chế xã hội truyền thống: Người Gié Triêng quần cư theo làng. Đứng đầu làng là chủ làng - còn gọi là Già làng, là người am hiểu các phong tục, tập quán và có uy tín cao nhất đối với dân làng, và cũng là người ra quyết định cuối cùng trong các cuộc họp của làng. Ngoài Già làng ra, trong làng còn có Hội đồng già làng gồm những người chủ và lớn tuổi của các gia đình và người chỉ huy quân sự.

Trong mỗi làng của người Gié Triêng bắt buộc phải có một lò rèn và một chiếc búa công cộng. Mỗi làng sẽ bao gồm nhiều căn nhà - nơi sinh sống của các gia đình Gié Triêng, được bố trí dọc theo các con đường làng.

- Hôn nhân: Theo tục lệ người Gié Triêng, trẻ em trai khi đến hơn 10 tuổi bắt đầu ngủ đêm tại nhà cộng đồng và sau đó vài ba năm sẽ lấy vợ. Các bậc cha mẹ đồng bào Gié Triêng tôn trọng sự lựa chọn hôn nhân của con cái.

Dân tộc Gié Triêng ảnh 2
Nhà ở truyền thống của người Gié Triêng. (Ảnh: Báo ảnh Dân tộc và miền núi)

- Nhà ở: Người Gié Triêng ở trên các ngôi sàn dài, nhà sàn nhỏ. Ngoài ra họ còn có nhà công cộng/chung dành cho nam giới, nữ giới và nhà tạm cho phụ nữ sinh đẻ. Hiện nay, người Gié Triêng còn sử dụng nhà trệt dài hình chữ nhật hay hình tròn bao quanh ngôi nhà công cộng ở giữa làng.

- Trang phục: Nam giới Gié Triêng thường đóng khố, ở trần, để tóc dài hoặc ngắn. Vào mùa lạnh, họ khoác thêm tấm áo choàng bằng vải dệt và đội khăn trắng. Phụ nữ Gié Triêng mặc nhiều loại váy khác nhau, với những tên gọi riêng, hoa văn khác nhau và ý nghĩa khác nhau. Cả nam và nữ người Gié Triêng đều thích đeo nhiều trang sức.

- Tôn giáo, tín ngưỡng: Người Gié Triêng theo tín ngưỡng đa thần, nhưng họ chưa có khái niệm riêng biệt để phân biệt thần, thánh, ma quỷ. Ngoài các lễ nghi của từng gia đình, vài năm một lần cả làng tổ chức chung lễ cúng cầu an, tạ ơn thần linh.

Bên cạnh các hình thức tín ngưỡng nêu trên, dân tộc Gié Triêng còn có các hình thức ma thuật trong chữa bệnh, hoạt động kinh tế..., gắn liền với các nghi lễ và những “vật thiêng”.

- Ẩm thực: Người Gié Triêng chủ yếu ăn gạo tẻ, gạo nếp, ngô, khoai, sắn và các sản phẩm từ trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn, hái lượm như chim, lợn rừng, nai, chồn, cà, bí... Đồng bào trước có thói quen ăn bốc, nhưng nay chuyển sang dùng đũa, bát nhiều hơn. Nam nữ đều hút thuốc lá bằng tẩu.

- Nhạc cụ: Nhạc cụ quan trọng nhất của người Gié Triêng là cồng chiêng. Có khi đồng bào đánh cồng chiêng tấu cùng với trống, với ống nứa. Nguyên ống nứa cũng là loại nhạc cụ phổ biến để thổi, vỗ, gõ ra âm thanh.

Dân tộc Gié Triêng ảnh 3

Phụ nữ Giẻ-Triêng bên bếp lửa. (Ảnh: Thành Đạt)

- Giáo dục: Theo số liệu điều tra 53 dân tộc thiểu số 1/4/ 2019: tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 77.6%, tỷ lệ người đi học chung cấp tiểu học 100.2%, tỷ lệ người đi học chung cấp trung học cơ sở là 90.5%, tỷ lệ người đi học chung cấp trung học phổ thông là 54.2%, tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường là 13.4%.

- Lễ tết: Mỗi khi cúng bái, người Gié Triêng đều thực hiện việc hiến tế, mà máu con vật hiến tế là quan trọng nhất. Lễ quan trọng phải đâm trâu, và xa xưa có nơi phải cúng bằng máu người trong lễ thức đặc biệt liên quan đến thần lúa. Trong chu kỳ sản xuất hằng năm thường có lễ thức khi chọn đất rẫy, phát rẫy, gieo trỉa, khi hạn hay úng, khi mở đầu tuốt lúa, khi đưa lúa lên kho, khi được 100 gùi lúa trở lên và khi lấy thóc lần đầu về ăn.

Gắn với chu kỳ đời người, người Gié Triêng còn thực hiện các lễ thức trong thời kỳ mang thai, trong và sau khi đẻ, khi đặt tên, khi bị đau ốm, khi cưa răng, trong việc cưới xin, khi chết đi. Tết dân tộc thường sớm hơn tết Nguyên đán, tổ chức theo làng.

Dân tộc Gié Triêng ảnh 4

Người đàn ông Giẻ-Triêng. (Ảnh: Thành Đạt)

5. Điều kiện kinh tế:

Người Gié Triêng chủ yếu sinh sống bằng việc làm rẫy. Xưa kia, họ trồng lúa nếp là chính, còn ngày nay trồng nhiều lúa tẻ, với cách thức canh tác đơn sơ. Ngoài việc trồng trọt các nông sản như ngô, khoai, sắn,… đồng bào Gié Triêng còn nuôi gà, lợn, trâu, chó dùng khi cúng tế. Người Gié Triêng còn có sở trường về đan lát, nghề dệt vải, và nghề làm gốm ở trình độ sơ đẳng. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, người Gié Triêng đã biết dùng tiền làm vật trao đổi.

Theo số liệu điều tra 53 dân tộc thiểu số 1/4/ 2019: Dân tộc Gié Triêng có: Tỷ lệ thất nghiệp 1.7%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ: 9.8%; Tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực phi nông nghiệp: 11.2%; Tỷ trọng lao động làm công việc quản lý hoặc CMKT bậc cao và trung: 4.4%; Tỷ lệ hộ nghèo: 27.7%; Tỷ lệ hộ cận nghèo: 10.4%; Tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh: 74.7%; Tỷ lệ hộ sử dụng điện lưới để thắp sáng: 98.6%.

● Français: L'ethnie Gié Triêng

● English: Gie Trieng ethnic group