(Ảnh: THÀNH ĐẠT)
(Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Dân tộc Brâu

NDO - Brâu là dân tộc thiểu số có dưới 1.000 người tại nước ta. Hiện nay, với những chính sách hỗ trợ đặc thù của Đảng và Nhà nước, cuộc sống đồng bào Brâu đã và đang thay đổi tốt đẹp hơn, văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy.

1. Nguồn gốc lịch sử

Tổ tiên của người Brâu cư trú ở vùng nam Lào và đông bắc Campuchia, đại bộ phận hiện nay vẫn cư trú bên lưu vực sông Sekamarn (Sê San), Nậm Khoong (Mê Kông), một bộ phận nhỏ người Brâu di cư sang Việt Nam sinh sống khoảng 150 - 160 năm (từ 6 - 7 thế hệ). Từ đó đến nay, người Brâu sinh sống trong khu vực ngã ba biên giới của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.

Tên gọi khác: Brao.

2. Dân số:

Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019: Tổng dân số: 525 người, trong đó dân số nam là 255 người và dân số nữ là 270 người. Quy mô hộ: 3,6người/hộ. Tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn: 94,7%.

Dân tộc Brâu ảnh 1

Người già Brâu vẫn giữ tục căng tai và hút thuốc bằng tẩu (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

3. Phân bố địa lý:

Chủ yếu cư trú tập trung tại làng Đắk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum, cách cửa khẩu quốc tế Bờ Y 10km và cách thành phố Kon Tum gần 100km.

4. Ngôn ngữ:

Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Người Brâu không có chữ viết. Sau giải phóng, Đảng và Nhà nước quan tâm về công tác giáo dục và bảo tồn truyền thống của dân tộc Brâu, trẻ được học tiếng phổ thông, học nghề.

Giáo dục: Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019: Tỷ lệ người Brâu từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông: 62,4%; Tỷ lệ người đi học chung cấp tiểu học: 104,1%; Tỷ lệ người đi học chung cấp trung học cơ sở: 42,9%; Tỷ lệ người đi học chung cấp trung học phổ thông: 33,3%; Tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường: 35,4%.

Dân tộc Brâu ảnh 2
Khuôn viên nhà rông văn hóa của người Brâu. (Ảnh:Báo Dân tộc)

5. Đặc điểm chính:

Ăn: Người Brâu chủ yếu ăn cơm nếp đốt trong ống nứa non (cơm lam), thứ đến là cơm gạo tẻ nấu trong nồi đất nung. Ngô, sắn chỉ dùng để chăn nuôi gia súc, gia cầm. Thức uống có rượu cần. Trẻ, già, trai, gái đều thích hút thuốc lá sợi bằng điếu khan.

Trang phục: Ðàn ông xưa đóng khố, đàn bà quấn váy tấm. Nữ giới có tục căng tai để đeo những khoanh nứa vàng hoặc khuyên bằng ngà voi. Nam nữ đến tuổi 15-16 đều theo tục cưa bằng 4 răng cửa hàm trên để chính thức hội nhập vào cộng đồng những người trưởng thành.

Nhà ở: Người Brâu cư trú trên những ngôi nhà sàn có mái dốc cao. Nền sàn được cấu tạo thành hai nấc cao thấp khác nhau để phân định chức năng sinh hoạt. Làng có khuôn viên hình tròn, các ngôi nhà ở được sắp xếp như một cái nan hoa của bánh xe bò.

Dân tộc Brâu ảnh 3

Đồng bào Brâu thực hiện nghi thức mừng nhà mới. (Ảnh: Báo Dân tộc)

Quan hệ xã hội: Xã hội Brâu đã phân hoá giàu nghèo ở giai đoạn ban đầu. Gia đình nhỏ phụ hệ đã được thiết lập, nam nữ bình quyền. Những tàn tích của chế độ gia đình mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét.

Cưới xin: Lễ cưới được tổ chức ở nhà gái song do nhà trai chi phí. Sau lễ kết hôn, tục ở rể được kéo dài khoảng 4 -5 năm và tiếp đó là thời kỳ luân cư của đôi trai gái.

Ma chay: Khi có người quá cố, tang chủ nổi chiêng trống để báo tang. Thi hài được liệm trong quan tài bằng thân cây khoét rỗng để ở nhà tang mới dựng gần nhà ở. Quan tài chôn nửa chìm nửa nổi là một đặc trưng trong tục lệ ma chay của người Brâu. Nhà mồ dựng trên mộ để chứa những tài sản được chia cho người chết. Số tài sản này đều đã bị huỷ một phần dưới hình thức bẻ gẫy, chọc thủng, làm sứt mẻ...

Nhà mới: Khi ngôi nhà được khánh thành, người ta làm lễ lên nhà khá long trọng và được cả làng cùng tham dự bữa tiệc sau lễ cúng các thần linh.

Lễ Tết: Lễ ăn mừng cơm mới sau ngày thu hoạch là Tết. Ngày ăn tết tuỳ thuộc vào thời vụ và từng gia đình cụ thể, không quy định ngày nào thống nhất.

Lịch: Nông lịch tính theo tuần trăng và định ra tháng theo mùa vụ canh tác rẫy lúa của ông bà xưa.

Văn hóa truyền thống: Dân ca có lời ca, truyện cổ về thần sáng tạo Pa Xây, huyền thoại Un cha đắp lếp, những bài ca đám cưới, hát ru. Nhạc cụ có đàn klông pút được gọi là táp đinh bổ. Quan trọng hơn cả vẫn là những bộ chiêng đồng nổi tiếng với 3 loại có thang âm khác nhau là coong, mam và tha.

Dân tộc Brâu ảnh 4

Sinh hoạt văn hóa truyền thống (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

6. Điều kiện kinh tế:

Nguồn sống chính là làm rẫy để trồng lúa nếp, lúa tẻ, ngô, sắn. Phương thức canh tác là phát, đốt rồi chọc lỗ tra hạt, thu hái bằng tay. Về thủ công nghiệp, đàn ông Brâu có khá nhiều người biết đan lát. Hiện nay người Brâu đã được hưởng các kết quả từ chính sách định canh, định cư của Đảng và Nhà nước, đặc biệt từ chương trình phát triển cửa khẩu Bờ Y.

Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019: Dân tộc Brâu có: Tỷ lệ hộ nghèo: 6,1%; Tỷ lệ hộ cận nghèo: 7,9%; Tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh: 88,0%; Tỷ lệ hộ sử dụng điện lưới để thắp sáng:100,0%; Tỷ lệ thất nghiệp: 0,38%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ: 2,2%; Tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực phi nông nghiệp: 1,5%; Tỷ trọng lao động làm công việc quản lý hoặc CMKT bậc cao và trung: 0,8%.

● Français: L’ethnie Brâu

● English: Brau ethnic group