Trong lịch sử đế chế Inca, có khoảng hai triệu lạc đà vicuna sinh sống tại khu vực cao nguyên của dãy núi Andes, một nơi hoang vắng, đầy gió trải dài từ phía nam Peru đến miền bắc Argentina. Người Inca thời xưa có luật lệ không cho ai được phép làm hại lạc đà vicuna và chỉ có giới quý tộc mới mặc quần áo bằng vải dệt từ lông vicuna. Lông vicuna quý giá được thu hoạch bốn năm một lần sau một nghi lễ phức tạp và nhân đạo gọi là “chaccu”, được bảo tồn tới ngày nay.
Lông lạc đà vicuna không chỉ có mầu vàng đẹp mắt mà còn có tác dụng quan trọng đối với loài vật này trong môi trường lạnh khắc nghiệt, không khí loãng do địa hình cao hơn nhiều so mặt nước biển. Lông của chúng có độ tơi xốp cao để cách nhiệt vì được tạo thành từ các sợi riêng lẻ có đường kính từ 12 đến 14 micron. Nhiều người thậm chí còn ví đây là “sợi tơ của Chúa Trời” vì lông vicuna là một trong những sợi tự nhiên tốt nhất thế giới. Trong ngành công nghiệp dệt - may, các sản phẩm làm từ lông lạc đà vicuna có giá cao gấp năm lần so các sản phẩm tương tự làm từ len cashmere, sợi cervelt hay vải mohair.
Khi những người Tây Ban Nha đến Peru năm 1532 và phát hiện ra lông vicuna, loài lạc đà này bắt đầu bị săn bắn khiến số lượng của chúng không ngừng suy giảm trong nhiều thế kỷ. Tới thế kỷ 20, khi áo choàng lông vicuna trở thành món đồ sang trọng ở Mỹ và châu Âu, số lượng lạc đà vicuna cũng chỉ còn dưới 10.000 con và rơi vào tình trạng sắp tuyệt chủng.
Trước tình hình đó, Chính phủ Peru đã xây dựng khu bảo tồn lạc đà vicuna đầu tiên mang tên Vườn bảo tồn quốc gia Pampa Galeras, rộng hơn 6.474 ha ở tỉnh miền núi Lucanas vào năm 1967. Hai năm sau, Peru cấm tất cả hoạt động thương mại liên quan các sản phẩm làm từ lông vicuna. Năm 1975, Công ước quốc tế về việc buôn bán các loài động vật quý hiếm (CITES) đã tuyên bố lạc đà vicuna là loài đang có nguy cơ tuyệt chủng. Tuy nhiên, việc bảo tồn loài lạc đà vicuna vẫn gặp nhiều khó khăn do môi trường sống của loài này quá rộng lớn và khó kiểm soát, khiến tình trạng săn bắn trái phép vẫn diễn ra thường xuyên.
Để giải quyết triệt để vấn nạn này, các quan chức và chuyên gia bảo tồn Peru quyết định hồi sinh phong tục “chaccu” cổ xưa. Trong nghi lễ, người dân địa phương sẽ dùng một sợi dây dài với những miếng vải đầy mầu sắc kết nối thành một vòng tròn có đường kính hàng trăm mét chung quanh đàn lạc đà. Khi vòng tròn này thu hẹp, đàn lạc đà sẽ dần bị tập trung lại để thực hiện nghi lễ xén lông. Tính nhân đạo của nghi lễ này là đàn lạc đà sẽ không bị hoảng loạn và việc thu hoạch lông không làm tổn hại bất kỳ sinh vật nào. “Nghi lễ xén lông chaccu chính là cách bảo vệ tốt nhất cho loài lạc đà vicuna”, ông German Freyre, cựu Tổng giám đốc của Incalpaca, một công ty dệt Peru nói.
Ngoài ra, Chính phủ cũng trao quyền cho người dân địa phương trông coi lạc đà vicuna trong khu vực của mình đi kèm với quyền khai thác lông lạc đà vicuna có kiểm soát, theo đúng phong tục chaccu. Mỗi con lạc đà sẽ cho khoảng 200 gram lông. Những sợi thô được bán với giá từ 300 - 450 USD/kg. Người dân địa phương có thể kiếm được lợi nhuận từ 2 đến 6% giá thành phẩm hoàn chỉnh. Lông lạc đà vicuna vừa phục vụ các nhà sản xuất may mặc và nghệ nhân dệt trong nước vừa là nguyên liệu cung cấp cho Loro Piana, thương hiệu thời trang xa xỉ của Italia. Hãng này không chỉ sở hữu các loại máy móc chuyên dụng để cho ra đời các sản phẩm thời trang tinh tế, mà còn đóng vai trò tích cực trong nỗ lực bảo tồn lạc đà vicuna tại Peru.
Chính sách này đã đem lại nguồn thu nhập bền vững cho cộng đồng dân nghèo tại những vùng hẻo lánh nhất của Peru. Đó chính là động lực mạnh mẽ để người dân bảo vệ lạc đà vicuna tránh bị săn bắt bất hợp pháp. “Hiện tại, lạc đà vicuna là một trong số ít loài trên thế giới đã phục hồi, tránh được bờ vực tuyệt chủng. Nhờ những nỗ lực bảo tồn, số lượng của chúng đã lên tới hơn 200.000 con”, ông Santiago Paredes Guerrero, nhà sinh vật học tại khu bảo tồn Pampa Galeras cho biết.