Tăng cường giám sát, bảo đảm minh bạch trong tuyển dụng nhân lực giáo dục

Để quy định về việc bố trí, phân công, thay đổi vị trí việc làm đối với các nhân lực giáo dục bảo đảm khả thi trong thực tiễn, các đại biểu Quốc hội kiến nghị nên có quy định cụ thể cơ chế giám sát, kiểm tra, báo cáo định kỳ bảo đảm minh bạch, công bằng trong tuyển dụng, điều động, thuyên chuyển nhân sự giáo dục.

Sáng 17/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội thảo luận tại tổ về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

Quy rõ cơ chế giám sát, bảo đảm minh bạch trong tuyển dụng nhân lực giáo dục

Đại biểu Trần Thị Quỳnh (Đoàn Ninh Bình) bày tỏ nhất trí sự cần thiết xây dựng Nghị quyết nhằm tạo khung khổ pháp lý, cơ chế, chính sách vượt trội giúp tháo gỡ điểm nghẽn vướng mắc tạo đà phát triển đột phá giáo dục và đào tạo.

db-tran-thi-quynh-4662.jpg
Đại biểu Trần Thị Quỳnh (Đoàn Ninh Bình). (Ảnh: QH)

Góp ý vào nội dung phát triển nguồn nhân lực ngành giáo dục (Điều 2), đại biểu Trần Thị Quỳnh tán thành với nhiều cơ chế, chính sách quy định tại điều này, đặc biệt là với quy định về tuyển dụng, tiếp nhận, điều động, thuyên chuyển, biệt phái nhân lực ngành giáo dục tại Điểm a Khoản 1. Theo đại biểu, đây là cơ chế đột phá trong phân cấp, phân quyền, phù hợp với thực tiễn nhằm tạo cơ chế để giải quyết vấn đề thừa, thiếu giáo viên cục bộ tại địa phương.

Tuy nhiên, để quy định về việc bố trí, phân công, thay đổi vị trí việc làm đối với các nhân lực này, bảo đảm khả thi trong thực tiễn, theo đại biểu nên có quy định cụ thể cơ chế giám sát, kiểm tra, báo cáo định kỳ bảo đảm minh bạch, công bằng trong tuyển dụng, điều động, thuyên chuyển nhân sự giáo dục.

dang-thi-my-huong-9512.jpg
Đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương (Đoàn Khánh Hòa). (Ảnh: QH)

Cùng quan tâm đến các chính sách phát triển nguồn nhân lực, đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương (Đoàn Khánh Hòa) cho rằng, dự thảo Nghị quyết trao quyền cho Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trong khâu tuyển dụng, điều động nhưng chưa quy định rõ cơ chế xử lý đối với cá nhân nếu để xảy ra tiêu cực, nhũng nhiễu, lạm quyền, cũng như trách nhiệm giải trình của người đứng đầu.

Trên cơ sở đó, đại biểu Mỹ Hương cùng một số đại biểu đề nghị cần xác định chặt chẽ phạm vi điều động (liên quan từ hai đơn vị hành chính cấp xã trở lên trong cùng một tỉnh); bổ sung cơ chế giám sát, minh bạch hóa bằng cách xây dựng cơ sở dữ liệu nhân sự, công khai chỉ tiêu, danh sách trúng tuyển, tiêu chí điều động và thiết kế cơ chế thanh tra độc lập.

Nghiên cứu lộ trình xây dựng sách giáo khoa điện tử

Một trong những điểm mới tại dự thảo Nghị quyết nhận được sự quan tâm là chủ trương miễn phí sách giáo khoa cho học sinh, hoàn thành vào năm 2030 và đối với các địa phương có điều kiện thì thực hiện sớm hơn từ năm học 2026–2027.

Đại biểu Ma Thị Thúy (Đoàn Tuyên Quang) đánh giá đây là chính sách lớn, mang ý nghĩa sâu sắc về phúc lợi xã hội và công bằng trong giáo dục. Chủ trương miễn phí sách giáo khoa là một bước tiến thể hiện bản chất nhân văn, xã hội chủ nghĩa của nền giáo dục nước ta.

Tuy nhiên, đại biểu bày tỏ băn khoăn về tính công bằng và khả năng thực thi của quy định này.

hop-to-1711-1906.jpg
Đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. (Ảnh: QH)

Theo dự thảo, những địa phương “có điều kiện” sẽ được thực hiện miễn phí sách giáo khoa sớm hơn 4 năm so với các địa phương còn lại. Trong khi đó, thực tế cho thấy, những tỉnh “có điều kiện” chủ yếu là các đô thị lớn, trung tâm kinh tế – nơi đời sống nhân dân đã tương đối cao; còn những địa phương khó khăn – miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số – lại phải chờ đến năm 2030 mới được hưởng lợi từ chính sách này.

Điều đó vô hình trung theo đại biểu tạo nên một nghịch lý xã hội: nơi học sinh cần được hỗ trợ nhất thì lại được hưởng sau cùng, như vậy quyền tiếp cận giáo dục của học sinh giữa các vùng sẽ không còn bình đẳng về thời điểm.

Do đó, đại biểu kiến nghị cơ quan soạn thảo xem xét điều chỉnh lại quy định này theo hướng: Giữ mục tiêu miễn phí sách giáo khoa toàn quốc vào năm 2030, nhưng cần ưu tiên thực hiện sớm ở vùng đặc biệt khó khăn, miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số – nơi người dân thực sự cần sự hỗ trợ nhất. Đồng thời, bổ sung tiêu chí cụ thể xác định “địa phương có điều kiện” dựa trên năng lực cân đối ngân sách, khả năng xã hội hóa, và mức thu nhập bình quân đầu người, để việc triển khai minh bạch, tránh tùy tiện.

Cho phép huy động nguồn lực xã hội hóa, quỹ học bổng, doanh nghiệp, tổ chức chính trị-xã hội cùng tham gia cung cấp sách giáo khoa miễn phí, thay vì chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước; thí điểm mô hình “thư viện sách giáo khoa dùng chung” tại các trường phổ thông từ năm 2026, đặc biệt ở vùng nông thôn và miền núi, để học sinh được mượn và sử dụng lại sách giáo khoa miễn phí trong thời gian chờ triển khai đồng bộ.

“Chính sách miễn phí sách giáo khoa, nếu được thiết kế hợp lý, công bằng và nhân văn, sẽ là một bước cụ thể hóa sinh động tinh thần “giáo dục vì mọi người, không ai bị bỏ lại phía sau”, đại biểu nêu rõ.

db-duong-minh-anh-1711-1844.jpg
Đại biểu Dương Minh Ánh (Đoàn thành phố Hà Nội). (Ảnh: QH)

Để bảo đảm nguồn lực trong khi ngân sách còn hạn chế, đại biểu Dương Minh Ánh (Đoàn thành phố Hà Nội) đề nghị Chính phủ nghiên cứu đối tượng được miễn phí tiền sách giáo khoa, hình thức miễn phí sách giáo khoa cho các cháu thông qua hình thức mượn qua thư viện nhà trường thay vì mỗi năm lại cung cấp miễn phí cho các cháu một bộ sách giáo khoa rồi lại bỏ đi, như vậy sẽ rất lãng phí.

Song song với đó, đại biểu đề nghị Chính phủ giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu việc biên soạn bộ sách giáo khoa điện tử (digital textbooks) giống như nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới như: Phần lan, Nhật Bản, Mỹ, Estonia,... và lộ trình thực hiện sẽ vào năm 2030.

“Để thực sự có sự đột phá trong phát triển giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông, tôi đề nghị Chính phủ cần nghiên cứu lộ trình xây dựng sách giáo khoa điện tử đưa vào áp dụng giảng dạy cho đối tượng học sinh phổ thông trong thời gian tới”, đại biểu nói.

Có thể bạn quan tâm

Bộ đội Biên phòng ươm mầm tương lai nơi biên cương

Bộ đội Biên phòng ươm mầm tương lai nơi biên cương

Những năm qua, Chương trình “Nâng bước em tới trường - Con nuôi đồn Biên phòng” đã trở thành điểm tựa vững chắc cho hàng nghìn học sinh vùng cao, biên giới, mở ra cơ hội học tập cho những mảnh đời còn nhiều thiếu thốn.

Học sinh trung học phổ thông (Ảnh minh họa: ĐẠI THẮNG)

Bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành sửa quy định về dạy thêm, học thêm

Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra những nội dung dự kiến điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung trong quy định của Thông tư 29 về dạy thêm, học thêm để lấy ý kiến đóng góp. Những điều chỉnh nhằm bảo đảm đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong quản lý về dạy thêm, học thêm và nhất quán với các quy định liên quan.

Ban tổ chức trao giải phụ cho thí sinh tham gia Cuộc thi.

Trao giải cuộc thi Olympic Quốc tế tiếng Nga lần thứ III

Lễ trao giải cuộc thi Olympic Quốc tế tiếng Nga lần thứ III không chỉ tôn vinh những thành tích xuất sắc của học sinh, sinh viên và đội ngũ giáo viên, mà còn là minh chứng sống động cho quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Liên bang Nga, quan hệ được nuôi dưỡng bền vững trên nền tảng hợp tác giáo dục sâu sắc.

(Ảnh: ĐẠI THẮNG)

Biên soạn sách giáo khoa điện tử góp phần tạo nguồn học liệu số phong phú

Việc biên soạn sách giáo khoa điện tử góp phần tạo ra nguồn học liệu số phong phú gắn với điều kiện cụ thể của Việt Nam và phù hợp xu thế giáo dục tiên tiến trên thế giới, bảo đảm tốt nhất lợi ích của người học, đồng thời bảo đảm mục tiêu thúc đẩy về chuyển đổi số quốc gia và phát triển công dân số.

Những nhân chứng lịch sử trong suốt những năm tháng sơ tán của Đại học Kinh tế Quốc dân chia sẻ tại phần giao lưu “Ký ức về một thời sơ tán”.

Từ ký ức sơ tán đến hợp tác phát triển: Đại học Kinh tế Quốc dân mở rộng gắn kết với các địa phương

Chương trình Lễ kỷ niệm 60 năm Đại học Kinh tế Quốc dân về nơi sơ tán (1965-2025) không chỉ là dịp nhìn lại chặng đường đầy ý nghĩa đã qua, mà còn mở ra hành trình hợp tác sâu rộng, đóng góp thiết thực cho sự phát triển bền vững của các địa phương đã gắn bó với nhà trường trong suốt sáu thập kỷ.