Phát triển công nghiệp văn hóa trước yêu cầu của thời đại

Các sản phẩm, dịch vụ của công nghiệp văn hóa không chỉ giúp khẳng định thương hiệu quốc gia mà còn đóng góp doanh thu không nhỏ vào ngân sách nhà nước. Việt Nam đã hình thành một số thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa, tuy nhiên, sức cạnh tranh của sản phẩm không cao, chưa có các sản phẩm văn hóa đại chúng có sức thu hút trên toàn cầu. Tăng tính cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp văn hóa là cần thiết, nhưng song song với đó là cần nâng cao vai trò quản lý, kiểm soát của các cơ quan chức năng để thị trường này phát triển đúng hướng.

Trưng bày các sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam tại Hàn Quốc (tháng 10/2022).
Trưng bày các sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam tại Hàn Quốc (tháng 10/2022).

Những năm gần đây, đặc biệt là từ sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 ngày 8/9/2016, những thay đổi tích cực của cơ chế chính sách đã góp phần thúc đẩy thị trường công nghiệp văn hóa Việt Nam có những bước tiến mới, đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP (tổng sản phẩm quốc nội) của cả nước.

Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công bố tại Hội nghị đánh giá 5 năm triển khai, thực hiện Quyết định số 1755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ diễn ra vào ngày 20/12/2022, tính đến năm 2018, 12 ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam đã đóng góp doanh thu khoảng 8,081 tỷ USD, tương đương 3,61% GDP. Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng nhận định, văn hóa và công nghiệp văn hóa phải song hành cùng nền kinh tế thị trường, tạo ra giá trị, lợi ích cho con người, quốc gia.

Thực tế, ở nước ta đã hình thành một số thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa hoạt động hiệu quả như: điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật, sách, tranh, hàng thủ công mỹ nghệ... Song song với thị trường trong nước, thị phần xuất khẩu hàng hóa văn hóa của Việt Nam ra thế giới cũng đạt kết quả tốt với nhiều sản phẩm có chất lượng.

Không thể phủ nhận những dấu ấn phát triển của một số thị trường sản phẩm và dịch vụ công nghiệp văn hóa, tuy nhiên cũng cần thừa nhận một thực tế là các sản phẩm công nghiệp văn hóa của Việt Nam chưa đa dạng, phong phú, kém hấp dẫn, thiếu tính độc đáo, ứng dụng nên chưa đáp ứng được thị hiếu và thẩm mỹ ngày càng cao của người tiêu dùng trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, nhiều sản phẩm chưa khai thác tối ưu đặc sắc văn hóa bản địa, khó định hình thương hiệu quốc gia nên sức cạnh tranh không cao, gặp nhiều trở ngại khi tiếp cận các thị trường quốc tế.

Trong khi, tính đặc trưng của văn hóa bản địa là một trong những điểm quan trọng trong thiết kế để nhận diện sản phẩm văn hóa của mỗi quốc gia, góp phần làm nên thương hiệu quốc gia. Đơn cử như thủ công mỹ nghệ, lĩnh vực được đánh giá là mũi nhọn để phát triển công nghiệp văn hóa vẫn đang loay hoay tìm hướng đi để liên tục đa dạng hóa sản phẩm, tăng tính bản địa độc đáo, hấp dẫn trong các thiết kế mẫu mã bởi khi bước ra thị trường thế giới, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có phần đuối sức so với mặt hàng cùng loại của một số quốc gia. Các nghệ nhân ở các làng nghề đa phần mới chỉ là thợ khéo tay chứ chưa phải là nhà thiết kế mẫu, trong khi sự khác biệt về mẫu mã là một trong những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm.

Chưa kể, nhiều làng nghề hiện chỉ sản xuất gia công theo mẫu thiết kế của nước ngoài, có rất ít sản phẩm mang thương hiệu riêng và tiếp cận được các yêu cầu sử dụng của thị trường thế giới. Hay như lĩnh vực du lịch, đặc biệt du lịch văn hóa là một thế mạnh của Việt Nam nhưng dường như đang trở nên bão hòa với nhiều sản phẩm, dịch vụ na ná nhau, thiếu bản sắc riêng. Thậm chí, không ít doanh nghiệp khai thác du lịch kiểu chộp giật, mạnh ai nấy làm, không những không tạo ra giá trị kinh tế mà còn làm tổn hại nghiêm trọng đến di sản và văn hóa bản địa.

Đề cập đến các sản phẩm công nghiệp văn hóa không thể không nhắc đến các sản phẩm thuộc lĩnh vực nghệ thuật. Những năm gần đây, Việt Nam chứng kiến sự nở rộ của khá nhiều tác phẩm mới, từ điện ảnh, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn... nhưng thực tế, những tác phẩm có thể chinh phục khán giả trong nước cũng như thế giới chưa nhiều. Nhiều sản phẩm nghệ thuật xuất hiện nhưng chưa tạo thành trào lưu; các không gian sáng tạo bùng nổ ở nhiều đô thị nhưng có chiều hướng phát triển không bền vững...

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Sơn-Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, Việt Nam chưa có nhiều tên tuổi, thương hiệu của các văn nghệ sĩ, nhà sáng tạo được định hình rõ ràng trong khu vực và trên thế giới. Ở lĩnh vực điện ảnh, nội lực của điện ảnh Việt chưa mạnh, số lượng phim đặt hàng của Nhà nước có thể ra rạp đếm được trên đầu ngón tay và đáng tiếc là hầu như chỉ chiếu trong các dịp kỷ niệm với số lượng khán giả hạn chế, được mời xem miễn phí.

Việt Nam chưa có nhiều tên tuổi, thương hiệu của các văn nghệ sĩ, nhà sáng tạo được định hình rõ ràng trong khu vực và trên thế giới. Ở lĩnh vực điện ảnh, nội lực của điện ảnh Việt chưa mạnh, số lượng phim đặt hàng của Nhà nước có thể ra rạp đếm được trên đầu ngón tay và đáng tiếc là hầu như chỉ chiếu trong các dịp kỷ niệm với số lượng khán giả hạn chế, được mời xem miễn phí.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Sơn-Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội

Phim Việt của tư nhân ra rạp mỗi năm cũng không thấm vào đâu và phần lớn vẫn lép vế về lượng khán giả so với phim nước ngoài. Số lượng phim sản xuất để phát trên các nền tảng số đã tăng nhiều nhưng nội dung khó kiểm soát, không ít phim có nội dung nhảm nhí, phản cảm, tuyên truyền văn hóa đồi trụy, kích động bạo lực... gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị hiếu, thẩm mỹ của khán giả, nhất là khán giả trẻ. Một số phim Việt đã được phát hành ở thị trường nước ngoài nhưng chưa có phim nào thật sự tạo được tiếng vang.

Trong lĩnh vực âm nhạc, bên cạnh những sản phẩm ghi được dấu ấn khi kết hợp và khai thác các chất liệu của văn hóa dân gian thì có không ít sản phẩm sáng tạo là “hàng lỗi”, “hàng kém chất lượng” bởi mang hơi hướng nửa mùa, lai căng, phản văn hóa. Nhạc sĩ Quốc Trung đã từng chia sẻ về hiện trạng đau lòng là kho tàng âm nhạc dân gian phong phú đã và đang trở thành những món “fast-food”, phục vụ du khách theo những cách nghiệp dư hay dịch vụ một cách suồng sã.

Có thể thấy, công nghiệp văn hóa Việt Nam thiếu các sản phẩm văn hóa đại chúng có sức thu hút trên toàn cầu mặc dù tiềm năng về sức sáng tạo, nguồn lực là rất lớn. Với quy mô dân số gần 100 triệu người nhưng kết quả khảo sát về sức tiêu dùng các sản phẩm công nghiệp văn hóa cho thấy, người Việt vẫn ưu ái hàng ngoại hơn bởi hàng nội chưa tạo được đột phá, chưa đủ hấp dẫn.

Điều này dẫn đến thực tế Việt Nam đã và đang phải nhập siêu về văn hóa từ các quốc gia cùng khu vực châu Á như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... Thậm chí, giai đoạn 2015-2020, gần 62% phim chiếu trên sóng VTV3-Đài Truyền hình Việt Nam là phim nhập khẩu hoặc phim dựng từ kịch bản mua bản quyền nước ngoài (phim Hàn Quốc và Trung Quốc chiếm tỷ lệ 79%). Hiện, phim hoạt hình, truyện tranh, các chương trình gameshow nước ngoài hoặc theo format nước ngoài cũng đang chiếm sóng.

Trong khi đó, ở nhiều nước trên thế giới, ngành công nghiệp âm nhạc và công nghiệp điện ảnh với những sản phẩm, dịch vụ chất lượng, đậm dấu ấn văn hóa không chỉ đóng góp những tên tuổi nghệ sĩ nổi tiếng thế giới mà còn mang về những lợi ích kinh tế khổng lồ. Thí dụ năm 2021, chỉ riêng nhóm nhạc BTS của Hàn Quốc đã mang về 56 nghìn tỷ won (tương đương 45,5 tỷ USD), con số dường như chỉ những tập đoàn kinh tế lớn mới có thể đạt được.

Bên cạnh những trở ngại từ cơ sở hạ tầng, cơ chế, chính sách, pháp luật chưa theo kịp thực tiễn phát triển, một trong các nguyên nhân quan trọng khác khiến các sản phẩm công nghiệp văn hóa của Việt Nam thiếu tính độc đáo, cạnh tranh là lâu nay, văn hóa và công nghiệp văn hóa thường được nhìn nhận ở góc độ mang lại các giá trị tinh thần, ít được coi là một loại hàng hóa lưu thông theo các quy luật của nền kinh tế thị trường.

Các nhà quản lý và cả những người thực hiện đều khá mơ hồ, lúng túng, chưa có một hình dung rõ ràng thế nào là một ngành công nghiệp âm nhạc hay công nghiệp điện ảnh... nên chưa có sự đầu tư bài bản, xứng tầm. Các yếu tố kinh doanh trên lĩnh vực văn hóa như: việc tìm đầu ra cho sản phẩm, phát triển thị trường, marketing, xúc tiến thương mại... chưa được chú trọng đúng mức. Mặt khác, việc khai thác các giá trị văn hóa, sử dụng các chất liệu văn hóa bản địa chưa đúng cách, chưa tạo được sự kết nối giữa truyền thống và đương đại khiến các sản phẩm ít có sự bứt phá trong thiết kế, ý tưởng sáng tạo.

Trong một thế giới đa văn hóa, dung hợp văn hóa như hiện nay, để tăng sức cạnh tranh, các sản phẩm và dịch vụ văn hóa không những phải đa dạng, hấp dẫn, mang bản sắc văn hóa riêng mà còn cần tương thích với những giá trị chung của toàn cầu.

Có như vậy, mới thu hút được người tiêu dùng trong nước, hạn chế việc nhập khẩu các sản phẩm văn hóa, đồng thời có được những sản phẩm văn hóa đại chúng có sức thu hút trên toàn cầu, tạo cơ hội cho xuất khẩu văn hóa. Các cơ quan quản lý, các địa phương cần xác định rõ và đánh giá đúng vai trò kinh tế của các ngành công nghiệp văn hóa, tạo điều kiện cho thị trường văn hóa phẩm phát triển bằng chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế.

Từ đó, có một chiến lược dài hơi, rõ ràng, đầu tư bài bản, tìm hiểu thị hiếu của người tiêu dùng để xây dựng, phát triển và mở rộng thị trường cho các sản phẩm công nghiệp văn hóa. Đồng thời, những tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân hoạt động trong ngành công nghiệp văn hóa cũng luôn phải đặt đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa là nhu cầu tự thân, cần được phát huy mỗi ngày, từng bước xây dựng một thị trường sản phẩm văn hóa đa dạng, giàu sức sống.

Song song với khuyến khích sáng tạo, cũng cần có những biện pháp quản lý, kiểm soát hiệu quả để thị trường này phát triển đúng hướng; tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh giúp các chủ thể phát huy hết tiềm năng và nội lực sáng tạo, bảo đảm “sức mạnh mềm” quốc gia được tạo nên từ những sản phẩm, dịch vụ văn hóa có chất lượng, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam trên thế giới.

(Còn nữa)

Có thể bạn quan tâm

Tập huấn công tác Đảng cho các chi bộ, đảng viên. (Ảnh: MINH HOÀN)

Ngăn chặn bệnh hình thức

Tháng 12 hằng năm, tất cả đảng viên đang công tác tại các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước đều phải xin ý kiến chi ủy nơi cư trú về việc thực hiện quy định của Bộ Chính trị về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú để phục vụ công tác đánh giá, bình xét cán bộ.

Diện mạo Thủ đô Hà Nội ngày càng khang trang, hiện đại. (Ảnh: QUANG THÁI)

Bài 3: Giữ vững “ý Đảng, lòng Dân”

Giữ vững “ý Đảng, lòng Dân” là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước, là cội nguồn sức mạnh, niềm tin chiến lược, điểm tựa tinh thần để dân tộc ta viết tiếp trang sử mới; đồng thời là “thành lũy” vững chắc, góp phần đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Sau 50 năm xây dựng và phát triển, hạ tầng Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng đồng bộ, hiện đại. (Ảnh: THẾ ĐẠI)

Nuôi ảo vọng “phục quốc” bằng chiêu trò “lật sử”

50 năm đã trôi qua kể từ chiến thắng lịch sử ngày 30/4/1975, nhưng những kẻ phản bội Tổ quốc vẫn ôm mộng xóa bỏ chế độ chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, nhằm thực hiện ảo vọng “phục quốc” ngông cuồng với những âm mưu, thủ đoạn vô cùng xảo trá, thâm độc.

Bàn giao nhà Đại đoàn kết cho gia đình hộ nghèo ở buôn Khăm, xã Suối Trai, tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh: MTTQ)

Thủ đoạn xuyên tạc nhân quyền Việt Nam dưới vỏ bọc “chứng cứ quốc tế”

Tại phiên họp lần thứ 60 Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (UNHRC) diễn ra vừa qua tại Geneva (Thụy Sĩ), một số tổ chức thiếu thiện chí như Human Rights Watch (HRW), Amnesty International (AI) đã đưa ra cáo buộc Việt Nam vi phạm nhân quyền dựa trên dữ liệu phiến diện, chủ quan, nhưng được tô vẽ thành “chứng cứ quốc tế”.

Giờ học của học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV. (Ảnh: DUY LINH)

Bản lĩnh chính trị và năng lực tư duy lý luận

Tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, các yếu tố toàn cầu hóa, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-công nghệ, đặc biệt là chuyển đổi số, đang đặt ra nhiều thách thức mới đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh chính trị quốc gia. 

Việt Nam được bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026-2028. (Ảnh: UN)

Việt Nam tiến bước vững chắc trên con đường phát triển

Những thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được trong thực tiễn đã minh chứng rõ ràng: Việt Nam đang tiến bước vững chắc trên con đường phát triển, vị thế, uy tín quốc gia ngày càng được củng cố, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp nhận hàng viện trợ của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tặng người dân Bắc Ninh. (Ảnh: Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai)

Đoàn kết, chung sức vượt qua thiên tai

Biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt, kéo theo những hiểm họa bão lũ, động đất, sóng thần,... đe dọa sự an toàn của các quốc gia. Với bờ biển dài hơn 3.200km, địa hình đa dạng từ đồng bằng đến miền núi, Việt Nam thường xuyên hứng chịu mưa bão, lũ lụt và sạt lở đất, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm hỏi và tặng quà các mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình chính sách tiêu biểu tỉnh Đồng Tháp. (Ảnh: TÍN HUY)

Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người

Việc Việt Nam tái đắc cử thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026-2028 là sự ghi nhận xứng đáng của cộng đồng quốc tế đối với những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người. Đó cũng là minh chứng rõ ràng, góp phần bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ngày 25/3/2025. (Ảnh: ĐĂNG KHOA)

Kiên quyết đấu tranh chống lãng phí tài sản công

Lãng phí nói chung, lãng phí tài sản công nói riêng gây thất thoát nguồn lực quốc gia, ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước cũng như của mỗi địa phương, đơn vị. Thời gian qua, Tổng Bí thư Tô Lâm thường xuyên nhấn mạnh công tác đấu tranh chống lãng phí, coi đây là cuộc chiến “chống giặc nội xâm” đầy cam go, phức tạp.

Ngày 16/6/2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với 100% đại biểu có mặt tán thành. (Ảnh: DUY LINH)

Giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng

Thế giới hôm nay đang chứng kiến những biến động sâu sắc, khó lường. Xung đột vũ trang, cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, khủng hoảng kinh tế-xã hội, biến đổi khí hậu, dịch bệnh toàn cầu… tạo nên những chấn động toàn diện, thử thách hệ giá trị, mô hình phát triển và hệ thống chính trị của nhiều quốc gia.

(Ảnh minh họa)

Phát huy mạnh mẽ “chủ quyền số” bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng

Trong kỷ nguyên số, không gian mạng trở thành mặt trận nóng bỏng của đấu tranh tư tưởng, nơi ranh giới giữa đúng-sai, thật-giả hết sức mong manh. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, tư tưởng chính trị là điều căn cốt nhất quyết định bản chất cách mạng của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Họp báo triển khai Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ 5, năm 2025. (Ảnh: HCMA)

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời đại số

Công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời đại số cần kiên định về mục tiêu, linh hoạt về phương thức, lập luận xác đáng, thuyết phục, thông điệp nhân văn. Cùng nhau tạo dựng niềm tin cộng đồng, xây dựng “hệ quy chiếu” chuẩn mực, tin cậy để xã hội nhận diện và miễn dịch trước mọi mưu đồ xuyên tạc, phá hoại.

Lễ hoa đăng kính mừng Phật đản tại chùa Pháp Hoa, Thành phố Hồ Chí Minh thu hút đông đảo Phật tử, người dân tham dự. (Ảnh BTC)

Bản báo cáo thiếu khách quan về tình hình nhân quyền tại Việt Nam

Ngày 12/8/2025, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố Báo cáo tình hình nhân quyền năm 2024 của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Giống như báo cáo thường niên các năm trước, tài liệu này tiếp tục đưa ra những nhận định tiêu cực, phản ánh không đúng về tự do ngôn luận, báo chí, internet và tôn giáo ở Việt Nam.