Phó giáo sư, Tiến sĩ VÕ QUANG NHƠN

Người thầy trưởng thành cùng Cách mạng Tháng Tám

Chắc có lẽ trên đời này, chả ai muốn chịu “an bần” đâu, nhưng nếu muốn “lạc đạo” thì phải coi các thầy cô là tấm gương mẫu mực. Chính thế hệ đó, góp phần làm nên những thành tựu của văn hóa cách mạng mà hôm nay chúng ta thừa hưởng và nhất thiết phải phát huy.

PGS, TS Võ Quang Nhơn có tình cảm máu thịt với Tây Nguyên. Mảnh đất ấy đã truyền cho ông tri thức và cảm hứng để biên soạn các tuyển tập Đăm Săn Thí (1972), Truyện cổ các dân tộc miền Nam (1976), Truyện cổ Ca tu (1978), Truyện cổ Cơ ho (1984, 1988) và đặc biệt là Dân ca Tây Nguyên (1976, 1986).
PGS, TS Võ Quang Nhơn có tình cảm máu thịt với Tây Nguyên. Mảnh đất ấy đã truyền cho ông tri thức và cảm hứng để biên soạn các tuyển tập Đăm Săn Thí (1972), Truyện cổ các dân tộc miền Nam (1976), Truyện cổ Ca tu (1978), Truyện cổ Cơ ho (1984, 1988) và đặc biệt là Dân ca Tây Nguyên (1976, 1986).

Một chiều mùa thu năm 1986, thầy Tân (PGS Bùi Duy Tân) sai con gọi tôi xuống nhà có việc. Thầy hỏi luôn là cậu làm việc lâu với thầy Võ Quang Nhơn, vậy có biết thầy Nhơn giỏi tiếng Pháp không? Tôi trả lời là chưa nghe thầy dùng bao giờ cả, nhưng tôi biết giáo trình của thầy Nhơn có trích dẫn tài liệu Pháp ngữ. Thầy Tân lim dim mắt:

- Lạ nhỉ? Tôi biết ông Nhơn gần 30 năm rồi, lại cùng bộ môn mà cũng không biết điều đó. Cậu biết không. Tuyệt vời. Chúng tôi sang Phnôm Pênh làm việc với Bộ Giáo dục của nước bạn. Cả đoàn chuyên gia gồm nhiều môn khác nhau để giúp bạn xây dựng giáo trình bậc đại học. Trao đổi qua tiếng Pháp. Phiên dịch của cả bạn và ta dịch rất lõm bõm. Chuyên gia ta nghe câu được, câu chăng. Từ một góc bàn xa, ông Nhơn nhẹ nhàng đứng dậy và dịch lưu loát. Đâu chỉ chuyên môn văn, sử, mà còn địa lý, toán, sinh, hóa... Dịch tất. Chúng tôi phải chia lịch làm việc các môn để ông có thời gian. Ba tháng ròng rã.

Sang bên anh ấy chơi đi - Thầy Tân kéo tôi sang nhà E Thanh Xuân vì cũng gần. Sang đến nơi, thầy Tân vào chuyện luôn:

- Anh giỏi Pháp ngữ thế sao cả đời cứ giấu biệt đi? Phải khẳng định đi chứ.

Thầy Nhơn cười hiền lành: - Anh biết cái thời ta rồi đấy. Nhiều giáo sư lên lớp, quen miệng chen tiếng Pháp vào, sinh viên phản ứng ghê lắm. Anh Đinh Gia Khánh, anh Chu Xuân Diên giỏi tiếng Anh còn đỡ. Vừa chống Pháp xong, ai giỏi tiếng Pháp, người ta cho rằng xu hướng nghiên cứu sẽ theo tư tưởng địch, nên tôi giấu biến đi, không ai biết cả.

Điều này làm tôi nhớ lại lời dặn của thầy khi tôi hướng dẫn luận văn đầu tiên cho sinh viên về sử thi Đẻ đất đẻ nước của tộc người Mường năm 1980. GS Chu Xuân Diên rất khen phương pháp của thầy trò. Đến chiều, thầy Nhơn kéo tôi ra gốc cây xà cừ, dặn khẽ:

- Tốt lắm. Nhưng đến thế thôi nhé. Em theo Lévy Strauss. Đúng đấy. Nhưng dừng lại đã nhé. Rồi người ta không cho em đứng lớp đâu. Phải cẩn thận và từ từ, chờ trời đẹp đã.

Dần dần thầy tâm sự với tôi rằng, thầy vốn từ Quảng Ngãi ra học trường tư thục ở Huế. Theo thầy Hoài Thanh cả về văn chương và hoạt động cách mạng trong phong trào thanh niên. Cách mạng Tháng Tám thành công, người thanh niên 16 tuổi ấy theo sự phân công của tổ chức, lên Cheo Reo (tỉnh Gia Lai cũ) hoạt động. Cùng ăn, cùng ở, cùng làm với đồng bào Ê Đê, Gia Rai. Đeo gùi, cầm dao phát, đi rừng phát rẫy. Học tiếng họ thành thạo, nghe những đêm kể Khan bên ché rượu cần, trò chuyện với các cha cố bằng tiếng Pháp.

Thầy tâm sự, ở đất đó hơn 100 năm trước, các cha cố đã lên truyền đạo Ki-tô. Bây giờ, mình cũng có sứ mạng ấy, đi truyền đạo yêu nước, kết đoàn. Chín năm ròng rã, da đen bóng, không ai còn nhận ra thầy là người Kinh. Cách nói năng, giao tiếp cũng đậm chất “đồng bào”.

Năm 1954, thầy tập kết ra bắc cùng đoàn các dân tộc Tây Nguyên. Tổ chức cũng nghĩ rằng thầy là người “dân tộc”. Vì thế, một thời gian ngắn, người ta cử thầy sang Lào giúp cách mạng nước bạn. Rồi sốt rét rừng không tha thầy. Theo đường Hòa Bình, anh em cáng thầy về nước. Thật là may, một ông ké người Mường bày cho phương thuốc: Nhổ một cây ớt chỉ thiên có đủ rễ, cây, cành, lá, hoa, quả... băm nhỏ ra, rang vàng, hạ thổ rồi sắc và uống. Thế mà dứt cơn sốt rồi lành hẳn.

Về Hà Nội tĩnh dưỡng, thầy tìm đến nhà văn Hoài Thanh, người thầy năm xưa đã gieo trong tâm hồn thầy tình yêu văn chương và bày tỏ nguyện vọng theo con đường văn chương. Thế mà mãi đến năm 1960, thầy mới thỏa nguyện, đỗ và theo học Khoa Văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, học khóa 5 (1960-1963).

Cho đến thời điểm hiện nay, tập giáo trình đại học Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam (Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983, 475 trang) vẫn là dấu mốc lớn trong việc giới thiệu một cách hệ thống di sản văn học và văn hoá các dân tộc ít người ở Việt Nam. Ý nghĩa của nó đã vượt ra ngoài phạm vi của một cuốn sách giáo trình dùng trong nhà trường, trở thành sách tra cứu cho những ai có nhu cầu tìm hiểu về những đóng góp của văn học các dân tộc ít người vào nền văn học chung của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Bởi thầy thạo tiếng và văn hóa các tộc người Tây Nguyên nên đã được phân công nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian các dân tộc ít người. Thầy lao vào công việc bằng tất cả niềm đam mê, nỗi nhớ đồng bào ở vùng đất vẫn đang bị chiếm đóng, chia cắt. Công việc chính của thầy là hoàn thành giáo trình Văn học dân gian các dân tộc ít người Việt Nam, một công trình đồ sộ về văn học của 50 tộc người mà tiền lệ chưa từng đặt ra trong lịch sử đào tạo ngữ văn hệ đại học. Thầy lặng lẽ thu thập văn học dân gian các tộc người ở Việt Bắc, Tây Bắc và Nam Bộ.

Trong quá trình nghiên cứu, thầy Võ Quang Nhơn kết hợp kinh nghiệm điền dã, biên soạn, phóng tác với lý luận cơ bản mang tính kinh viện. Thầy tham gia biên soạn nhiều cuốn sách truyện cổ các dân tộc như Dân ca Tây Nguyên, Truyện cổ các dân tộc miền Nam, Truyện cổ Cơ Tu, Truyện cổ Cơ Hạ, Chàng Đam Thí, Chặt cây Chu đồng.

Bên cạnh đó, thầy còn biên soạn sách truyện cổ của nước bạn, như Tráng sĩ Hồng Kinh Tôn (truyện cổ Triều Tiên), Bốn cây hoa Chămpa (truyện cổ Lào). Thầy cộng tác với nhiều nhà xuất bản như Kim Đồng, Văn hóa dân tộc...

Cuối những năm 1960, giáo trình Văn học dân gian các dân tộc ít người Việt Nam hoàn thành một số phần và đến năm 1972, giáo trình đã hoàn chỉnh. Khóa Văn khoa chúng tôi (1973-1977) được học môn của thầy qua những tập tài liệu đánh máy trên giấy pelure được ghim lại. Việc in ấn thời ấy rất khó khăn, tính thầy thì luôn luôn nhường nhịn, chịu thiệt về mình nên phải đến hơn 10 năm sau, giáo trình mới được ấn loát dày dặn. Giới nghiên cứu trầm ngâm trước công trình hết sức cơ bản, sánh vai với nhiều giáo trình các bậc đi trước.

Một chương trong bộ giáo trình đó, thầy dùng để bảo vệ thay cho luận án tiến sĩ và nhận học vị Tiến sĩ, học hàm Phó Giáo sư. Phó giáo sư, Tiến sĩ Võ Quang Nhơn cũng như tất cả các thầy, cô của chúng tôi, đều có điểm chung là... nghèo.

Thế hệ đó trải qua đủ các giai đoạn tiền khởi nghĩa, Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, chiến tranh giải phóng dân tộc và trở thành những trí thức mẫu mực của đất nước. Nay, càng nghĩ càng thương các thầy cô...

Có thể bạn quan tâm

Nhà thơ - Nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc: "Người có gốc thì không bao giờ đi lạc"

Nhà thơ - Nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc: "Người có gốc thì không bao giờ đi lạc"

Với nhà thơ - nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc văn hóa dân tộc thiểu số là sự tụ bồi của linh khí đất đai, là “trí khôn cộng đồng” mà mỗi thế hệ phải gìn giữ. Cuộc trò chuyện của bà với Báo Nhân Dân chất chứa những suy tư, trăn trở và niềm tin bền bỉ về văn hóa Tây Bắc trong dòng chảy lịch sử dân tộc.

"Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng”

"Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng”

Sau 50 năm đất nước giành được độc lập và thống nhất trọn vẹn, chúng ta đã có thể khẳng định, thế hệ hôm nay, không chỉ kính trọng, ghi ơn mảnh trăng giữa rừng, mà còn tìm thấy từ những năm tháng gian khổ, hy sinh để có chiến thắng ấy nhiều bài học trong công cuộc dựng và giữ nước.

Nhà văn Minh Chuyên miệt mài bên trang bản thảo. (Ảnh: HẢI NAM)

Người "cần mẫn cuốc cày" trên "cánh đồng hậu chiến"

Từng phải trải qua bảy lần phẫu thuật vì bệnh hiểm nghèo do di chứng chất độc da cam và nay đã ở tuổi 77, nhà văn, đạo diễn, Anh hùng Lao động Minh Chuyên vẫn lạc quan, cần mẫn cày cuốc trên cánh đồng văn chương ở mảng đề tài vốn luôn nhiều nước mắt: Viết về thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng.

Hình ảnh tại chương trình nghệ thuật chính luận "Tổ quốc trong tim" của Báo Nhân Dân vào tối 10/8/2025. (Ảnh: PHẠM QUỐC DŨNG)

Tinh thần Việt Nam tạo nên thắng lợi của cách mạng

Trong suốt 80 năm hành trình kể từ ngày độc lập, đất nước và con người Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm,biến đổi. Nhưng có những điều căn cốt làm nên giá trị tinh thần của người Việt, như ngọn lửa xuyên suốt, là cội nguồn sức mạnh đưa đến thắng lợi của mọi nỗ lực bảo vệ và xây dựng, phát triển đất nước.

Tấm vải nhuộm khiến tác giả kinh ngạc ở vùng biên giới xa xôi năm ấy.

Chống lại một vũ trụ Mono

Có một khẩu quyết của các nhà buôn trong thời đại toàn cầu hóa, là “Nhanh, Nhiều, Tốt, Rẻ”. Và gần như chắc chắn, nó xung đột với nhu cầu giữ gìn bản sắc của bất cứ cộng đồng nào.

Các bạn trẻ người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên học hỏi, tiếp nhận các giá trị văn hóa truyền thống.

Tự tin vượt qua những rào cản cố hữu

Nhiều bộ sử thi, truyện cổ và bài hát xa xưa của các tộc người Tây Nguyên đã kể về nguồn gốc sinh thành cộng đồng cư dân của họ. Các huyền thoại lưu truyền đến bây giờ đều nhắc nhớ cháu con về tổ tiên ở thời tiền sử.

Nét đẹp bình dị của kiến trúc nhà ở nông thôn nơi Làng Cựu (ngoại thành Hà Nội). (Ảnh: KHIẾU MINH)

Giáo sư, Tiến sĩ, Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính: Bản sắc kiến trúc là kết tinh của cảm thức Việt

“Từ năm 1945, đất nước ta đã trải qua một giai đoạn phát triển với những đặc trưng mang tính thời đại, các cuộc chiến tranh lâu dài và công cuộc kiến tạo trật tự xã hội mới. Thực tiễn ấy để lại những dấu ấn sâu đậm trên gương mặt kiến trúc ở cả chốn thị thành lẫn thôn quê”.

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (giữa) đang trò chuyện cùng các đại biểu tham dự cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ trong hai ngày 7-8/10/1987, trong đó có đạo diễn Trần Văn Thủy (thứ ba từ trái sang).

Một hành trình để được nói lên sự thật

Có lẽ, không ít người thuộc lớp cư dân Thủ đô trung tuổi còn nhớ như in hình ảnh những hàng dài khán giả háo hức chờ đợi mua vé thưởng thức bộ đôi phim tài liệu Hà Nội trong mắt ai và Chuyện tử tế của gần bốn thập kỷ trước.

Những “vùng đệm xanh” yên bình của cây trái, vườn tược khu vực biên giới.

Đội hình giữ đất trên quê hương mới

Năm 1998 đang ở tập thể, có lần ngồi ăn cơm, một con mang từ đâu nhảy thẳng vào giữa mâm… Nó còn trố mắt nhìn mình chứ! Lần khác, năm 1999, khuân gỗ về, trời nóng, rủ nhau ra suối tắm, một anh bị rắn xanh cắn. May có con dao lam, rạch ra, mút máu độc rồi đưa sang đồn, quân y bôi thuốc cho.

Với đam mê, năng lượng và bản lĩnh

Với đam mê, năng lượng và bản lĩnh

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và bùng nổ công nghệ, thế hệ trẻ Việt Nam, đặc biệt là Gen Z, đang trở thành những sứ giả văn hóa năng động và sáng tạo. Họ chủ động khởi xướng những dự án mang đậm tinh thần Việt, truyền cảm hứng và lan tỏa bản sắc dân tộc theo cách rất riêng.

(Minh họa: NGUYỄN NGHĨA CƯƠNG)

Ra rạp xem phim

“Ra rạp xem phim” là một khẩu ngữ, đã đạt tới mức là một thành ngữ thân thương ở hồi trong trắng bao cấp. Với rất nhiều trung niên hay thiếu phụ thị dân Hà thành, điện ảnh sang trọng phải là phim chiếu rạp.