Nhà văn Minh Chuyên miệt mài bên trang bản thảo. (Ảnh: HẢI NAM)
Nhà văn Minh Chuyên miệt mài bên trang bản thảo. (Ảnh: HẢI NAM)

Người "cần mẫn cuốc cày" trên "cánh đồng hậu chiến"

Từng phải trải qua bảy lần phẫu thuật vì bệnh hiểm nghèo do di chứng chất độc da cam và nay đã ở tuổi 77, nhà văn, đạo diễn, Anh hùng Lao động Minh Chuyên vẫn lạc quan, cần mẫn cày cuốc trên cánh đồng văn chương ở mảng đề tài vốn luôn nhiều nước mắt: Viết về thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng.

Nhà văn, đạo diễn, Anh hùng Lao động Minh Chuyên là tác giả của gần 70 cuốn sách, 62 giải thưởng văn học nghệ thuật trong nước và quốc tế, viết kịch bản và đạo diễn hơn 200 tập phim phát sóng trên các đài truyền hình quốc gia ở trong và ngoài nước. Từng phải trải qua bảy lần phẫu thuật vì bệnh hiểm nghèo do di chứng chất độc da cam và nay đã ở tuổi 77, ông vẫn lạc quan, cần mẫn cày cuốc trên cánh đồng văn chương ở mảng đề tài vốn luôn nhiều nước mắt: Viết về thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng.

Bước ngoặt nghiệt ngã của số phận

Hình như với những người cầm bút có ít nhiều thành tựu, họ đều chọn một miền đất cho riêng mình để “thâm canh”. Nếu Tô Hoài từng chọn Tây Bắc, Phạm Tiến Duật luôn khắc khoải với Trường Sơn, Trần Đăng Khoa mải miết với những trang thơ về Trường Sa... thì ở mảng đề tài hậu chiến, không thể không nhắc đến Minh Chuyên.

Nhà văn Minh Chuyên đến với mảng đề tài này như một sự sắp đặt ngẫu nhiên đầy nghiệt ngã. Trên báo Văn nghệ số 19, tháng 5/1988, bài bút ký của ông mang tên Thủ tục để làm người còn sống đã nhanh chóng gây chấn động dư luận xã hội ngay sau khi tờ báo được phát hành.

Bút ký kể về hành trình gian nan của một quân nhân từng bị lạc đơn vị, bị báo tử nhầm về địa phương và phải tự tìm mọi cách để chứng minh mình chưa chết. Nó như một “quả bom thời hậu chiến”. Hàng nghìn bức thư, cuộc điện thoại của độc giả gửi về tòa soạn khen ngợi. Song, bút ký ấy cũng làm cho một số cá nhân liên quan bất bình và phản ứng.

Suốt gần hai năm trời sau đó, diễn ra 15 cuộc họp lớn nhỏ từ địa phương đến Trung ương, có những cuộc họp bao gồm 17 thành phần tham dự. Hàng trăm biên bản đã được lập, hàng chục bản tường trình được viết và cũng ngần đó bản thông báo được các cơ quan chức năng gửi đi…

Cuộc tranh cãi chỉ ngã ngũ khi có kết luận do Thượng tướng Nguyễn Quyết, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị ký với nội dung: “Đồng chí Trần Quyết Định là con một gia đình công giáo chấp hành chính sách tốt, có ba con đi bộ đội đã chiến đấu ở biên giới Tây Nam, bị thương và được khen thưởng. Sau khi điều trị, đi tìm đơn vị không thấy, bỏ về quê quán sinh sống bình thường. Việc giải quyết chính sách kéo dài 10 năm (thực tế là ngày 1/2/1987 mới đề nghị) do không đủ thủ tục hợp lệ (là trường hợp bỏ ngũ, không có giấy quyết định phục viên hoặc xuất ngũ). Tổng cục Chính trị quyết định: Giao cho Bộ chỉ huy Quân sự Thái Bình vận dụng điều 2 Quyết định 191/ HĐBT tổ chức giám định thương tật và kiểm điểm đồng chí Trần Quyết Định...”.

Nhà văn, đạo diễn và ông chủ bảo tàng

Hơn 50 năm cầm bút, Minh Chuyên dành tất cả tài năng, sức lực và tâm huyết cho đề tài hậu chiến, ở cả ba cương vị: Nhà văn, đạo diễn và “ông chủ” của Bảo tàng tác phẩm Hậu chiến tranh-Minh Chuyên.

Ở cương vị nhà văn, trong số khoảng 70 tác phẩm đã xuất bản, gồm hai tiểu thuyết, năm truyện ngắn, số còn lại là ký và bút ký với các tác phẩm nổi tiếng như Nỗi oan trần thế, Linh hồn Việt cộng, Người lang thang không cô đơn, Trở lại kiếp người, Thủ tục để làm người còn sống… viết về số phận những người lính trong chiến tranh với không ít nỗi đau, oan khuất, thiệt thòi.

Mảng đề tài thứ hai của chủ đề hậu chiến là số phận những nữ thanh niên xung phong, với các tác phẩm như Vào chùa gặp lại, Dưới tán bồ đề, Tiếng hát át tiếng bom, Dấu chân Trường Sơn… Sau khi chiến tranh kết thúc, hoàn thành nhiệm vụ, họ trở về với ốm đau, thương tật, nỗi ám ảnh và cả những năm tháng thanh xuân đã gửi lại chiến trường. Trong đó, không ít người đã tìm về chốn Phật, “nương bóng bồ đề” để vơi đi cô đơn, buồn tủi.

Mảng đề tài thứ ba của lĩnh vực này được Minh Chuyên dành nhiều tâm huyết, thể hiện qua các tác phẩm Di họa chiến tranh, Những linh hồn da cam, Đứa con màu da thú, Chiếc cũi trần gian… Ông quan tâm sâu sắc tới người lính và những đứa con của họ bị di chứng chất độc da cam.

Ở cương vị đạo diễn cao cấp của Đài Truyền hình Việt Nam, Minh Chuyên đã viết kịch bản, đạo diễn hơn 200 tác phẩm được phát trên VTV và nhiều đài truyền hình quốc gia khác, được trao nhiều Huy chương vàng, bạc tại các liên hoan phim trong nước cũng như quốc tế. Trong đó, Linh hồn Việt cộng đoạt Giải đồng hạng tại Liên hoan phim tài liệu Colombia, Cha con người lính đạt Giải vàng liên hoan phim Quốc tế lần thứ 10 tổ chức tại Triều Tiên năm 2006.

minh-chuyen4.jpg
Nhà văn Minh Chuyên.

Từ khi về hưu, Minh Chuyên chuyển dần số tài liệu về quê. Nhà nhỏ, tài liệu thì nhiều, khách đông nên mọi người đến thăm không khỏi ái ngại. Thế rồi vào năm 2017, căn cứ vào đề án do nhà văn Minh Chuyên đề xuất, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (cũ) quyết định cấp đất và đầu tư kinh phí để xây dựng Bảo tàng tác phẩm hậu chiến tranh-Minh Chuyên tại xã Minh Khai quê nhà.

Với diện tích 1.500 m2, bảo tàng được chia thành mấy chủ đề chính gồm Đền thờ Liệt sĩ, 100m phù điêu dãy Trường Sơn huyền thoại, khu nhà lưu giữ, bảo quản hơn 1.000 tư liệu, tác phẩm điện ảnh, văn chương, kỷ vật…

Một điều rất vui với ông chủ là mỗi năm, có từ 4.000-5.000 lượt người đến tham quan trong đó có nhiều lãnh đạo các cấp và học sinh, sinh viên. Đây cũng là nơi hội ngộ của các cựu chiến binh, nhất là vào những ngày lễ trọng.

Một trong những hoạt động đáng chú ý của bảo tàng là tập hợp bản thảo và xây dựng kế hoạch xuất bản bộ sách về đề tài hậu chiến. Đến nay, bảo tàng đã xuất bản 35 tập Nỗi đau sau cuộc chiến, dày từ 600-1.000 trang/tập, bao gồm bài báo, sáng tác văn chương của khoảng 2.000 tác giả trong và ngoài nước. Minh Chuyên cho biết, mục tiêu phấn đấu của bộ sách này khoảng 100 tập.

Với sự nhanh nhạy, xông xáo của một nhà báo, sức sáng tạo và trí tưởng tượng của nhà văn, sự dấn thân của một người lính cùng tài năng và sự cần mẫn, Minh Chuyên đã tạo nên một kho tàng tác phẩm văn học nghệ thuật và báo chí khá đồ sộ. Đặc biệt, nhiều tác phẩm của ông đã có tác động sâu rộng tới đời sống xã hội.

Những chuyến tác nghiệp đẫm mồ hôi và nước mắt

Để có những trang viết với sự việc, nhân vật chân thực và sống động là biết bao nỗi gian nan, vất vả của người cầm bút. Họ không chỉ đổ mồ hôi, sôi nước mắt, sự cay cực đến tủi hổ mà nhiều khi phải đối mặt với thử thách giữ gìn mạng sống của chính mình.

Minh Chuyên kể về chuyến đi tìm hồ sơ cho Trần Quyết Định trong bút ký Thủ tục để làm người còn sống đầy những gian nan. Đường sá xa xôi, ra bắc vào nam, phương tiện không có, thời tiết thất thường lúc nắng, lúc rét… “Có lần chờ tàu, nhà ga vừa đông, vừa tối, lại nhốn nháo, kẻ cắp đã nẫng mất chiếc ba-lô. Thế là chăn màn, quần áo, cơm nắm, tép khô, cả tiền nong, mất sạch. Đêm ấy, hai anh em đành nhịn đói, ngồi ôm nhau cho đỡ rét, đợi sáng. Hôm sau, không còn cách nào khác, chúng tôi đành phải nhẫn nhục hành khất để lấy tiền mua vé…”, ông tâm sự.

Quỹ thời gian không còn nhiều, tôi sẽ dành hết cuộc đời này để viết về sự hy sinh, đóng góp cũng như những mất mát, thiệt thòi của đồng bào tôi, đồng đội tôi sau cuộc chiến và giúp các thế hệ sau hiểu về những gì đất nước đã trải qua, để trân trọng những gì đã có hôm nay.

(Nhà văn, đạo diễn, Anh hùng Lao động Minh Chuyên)

Minh Chuyên còn kể rằng, năm 2006, khi đang tác nghiệp ở Gia Lai, ông đã suýt “mất mạng”. Hôm đó là một ngày hè Tây Nguyên nắng gió, khi đang cùng với cộng sự ghi hình cho bộ phim Linh hồn Việt cộng, ông bỗng thấy mệt rã rời, tai ù, mắt hoa. Nghĩ mình tuổi cao, chắc bị trúng gió nên vào một gốc cây tạm nghỉ. Tuy nhiên, một cơn đau bụng khiến ông quằn quại, căn bệnh K bàng quang lại tái phát. Ngay đêm đó, ông gấp rút bay về Hà Nội, đến thẳng Viện 108 và ca phẫu thuật được tiến hành ngay lập tức. Sau này, bác sĩ điều trị cho ông hay, nếu như chỉ chậm vài giờ nữa, không biết số phận ông sẽ thế nào?...

Ở tuổi xưa nay hiếm, dù mang trong mình căn bệnh hiểm nghèo nhưng Minh Chuyên vẫn rất lạc quan. Nhiều khi tôi tự hỏi, không hiểu ông lấy đâu ra nguồn năng lượng lớn như thế bởi để có một trang sách ra mắt bạn đọc, nhiều khi tác giả phải viết hai, thậm chí ba trang bản nháp ban đầu. Và còn phải tốn không biết bao nhiêu thời gian, công sức cho các việc, từ phát hiện đề tài, tìm tư liệu, lấy tư liệu...

Đó là chưa kể đến nào quản lý, tổ chức các hoạt động của bảo tàng, đạo diễn phim, tiếp các đoàn khách đến thăm, nhiều khi, chỉ việc nghe và trả lời điện thoại, đã thấy mệt.

Có lần, Minh Chuyên bảo tôi: “Mình lạ lắm, nhiều lúc ốm đau, mệt mỏi, nhưng cứ ngồi vào bàn viết là thấy mình khỏe ra”. Rồi giọng ông chợt trầm xuống: “Quỹ thời gian không còn nhiều, tôi sẽ dành hết cuộc đời này để viết về sự hy sinh, đóng góp cũng như những mất mát, thiệt thòi của đồng bào tôi, đồng đội tôi sau cuộc chiến và giúp các thế hệ sau hiểu về những gì đất nước đã trải qua, để trân trọng những gì đã có hôm nay”.

Khuôn mặt ông chợt ánh lên một nụ cười rạng rỡ.

Có thể bạn quan tâm

Hội họa từ trái tim một người lính

Hội họa từ trái tim một người lính

“Tình yêu dành cho thiên nhiên và con người là mạch nguồn chính trong sáng tác của tôi. Từ các bức tranh tôi vẽ, bạn có thể nhận thấy tình yêu của tôi dành cho quê hương và những con người đã đem lại cho tôi sự sống…”.

Nhà thơ - Nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc: "Người có gốc thì không bao giờ đi lạc"

Nhà thơ - Nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc: "Người có gốc thì không bao giờ đi lạc"

Với nhà thơ - nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc văn hóa dân tộc thiểu số là sự tụ bồi của linh khí đất đai, là “trí khôn cộng đồng” mà mỗi thế hệ phải gìn giữ. Cuộc trò chuyện của bà với Báo Nhân Dân chất chứa những suy tư, trăn trở và niềm tin bền bỉ về văn hóa Tây Bắc trong dòng chảy lịch sử dân tộc.

"Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng”

"Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng”

Sau 50 năm đất nước giành được độc lập và thống nhất trọn vẹn, chúng ta đã có thể khẳng định, thế hệ hôm nay, không chỉ kính trọng, ghi ơn mảnh trăng giữa rừng, mà còn tìm thấy từ những năm tháng gian khổ, hy sinh để có chiến thắng ấy nhiều bài học trong công cuộc dựng và giữ nước.

Hình ảnh tại chương trình nghệ thuật chính luận "Tổ quốc trong tim" của Báo Nhân Dân vào tối 10/8/2025. (Ảnh: PHẠM QUỐC DŨNG)

Tinh thần Việt Nam tạo nên thắng lợi của cách mạng

Trong suốt 80 năm hành trình kể từ ngày độc lập, đất nước và con người Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm,biến đổi. Nhưng có những điều căn cốt làm nên giá trị tinh thần của người Việt, như ngọn lửa xuyên suốt, là cội nguồn sức mạnh đưa đến thắng lợi của mọi nỗ lực bảo vệ và xây dựng, phát triển đất nước.

Tấm vải nhuộm khiến tác giả kinh ngạc ở vùng biên giới xa xôi năm ấy.

Chống lại một vũ trụ Mono

Có một khẩu quyết của các nhà buôn trong thời đại toàn cầu hóa, là “Nhanh, Nhiều, Tốt, Rẻ”. Và gần như chắc chắn, nó xung đột với nhu cầu giữ gìn bản sắc của bất cứ cộng đồng nào.

Các bạn trẻ người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên học hỏi, tiếp nhận các giá trị văn hóa truyền thống.

Tự tin vượt qua những rào cản cố hữu

Nhiều bộ sử thi, truyện cổ và bài hát xa xưa của các tộc người Tây Nguyên đã kể về nguồn gốc sinh thành cộng đồng cư dân của họ. Các huyền thoại lưu truyền đến bây giờ đều nhắc nhớ cháu con về tổ tiên ở thời tiền sử.

PGS, TS Võ Quang Nhơn có tình cảm máu thịt với Tây Nguyên. Mảnh đất ấy đã truyền cho ông tri thức và cảm hứng để biên soạn các tuyển tập Đăm Săn Thí (1972), Truyện cổ các dân tộc miền Nam (1976), Truyện cổ Ca tu (1978), Truyện cổ Cơ ho (1984, 1988) và đặc biệt là Dân ca Tây Nguyên (1976, 1986).

Người thầy trưởng thành cùng Cách mạng Tháng Tám

Chắc có lẽ trên đời này, chả ai muốn chịu “an bần” đâu, nhưng nếu muốn “lạc đạo” thì phải coi các thầy cô là tấm gương mẫu mực. Chính thế hệ đó, góp phần làm nên những thành tựu của văn hóa cách mạng mà hôm nay chúng ta thừa hưởng và nhất thiết phải phát huy.

Nét đẹp bình dị của kiến trúc nhà ở nông thôn nơi Làng Cựu (ngoại thành Hà Nội). (Ảnh: KHIẾU MINH)

Giáo sư, Tiến sĩ, Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính: Bản sắc kiến trúc là kết tinh của cảm thức Việt

“Từ năm 1945, đất nước ta đã trải qua một giai đoạn phát triển với những đặc trưng mang tính thời đại, các cuộc chiến tranh lâu dài và công cuộc kiến tạo trật tự xã hội mới. Thực tiễn ấy để lại những dấu ấn sâu đậm trên gương mặt kiến trúc ở cả chốn thị thành lẫn thôn quê”.

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (giữa) đang trò chuyện cùng các đại biểu tham dự cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ trong hai ngày 7-8/10/1987, trong đó có đạo diễn Trần Văn Thủy (thứ ba từ trái sang).

Một hành trình để được nói lên sự thật

Có lẽ, không ít người thuộc lớp cư dân Thủ đô trung tuổi còn nhớ như in hình ảnh những hàng dài khán giả háo hức chờ đợi mua vé thưởng thức bộ đôi phim tài liệu Hà Nội trong mắt ai và Chuyện tử tế của gần bốn thập kỷ trước.

Những “vùng đệm xanh” yên bình của cây trái, vườn tược khu vực biên giới.

Đội hình giữ đất trên quê hương mới

Năm 1998 đang ở tập thể, có lần ngồi ăn cơm, một con mang từ đâu nhảy thẳng vào giữa mâm… Nó còn trố mắt nhìn mình chứ! Lần khác, năm 1999, khuân gỗ về, trời nóng, rủ nhau ra suối tắm, một anh bị rắn xanh cắn. May có con dao lam, rạch ra, mút máu độc rồi đưa sang đồn, quân y bôi thuốc cho.

Với đam mê, năng lượng và bản lĩnh

Với đam mê, năng lượng và bản lĩnh

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và bùng nổ công nghệ, thế hệ trẻ Việt Nam, đặc biệt là Gen Z, đang trở thành những sứ giả văn hóa năng động và sáng tạo. Họ chủ động khởi xướng những dự án mang đậm tinh thần Việt, truyền cảm hứng và lan tỏa bản sắc dân tộc theo cách rất riêng.

(Minh họa: NGUYỄN NGHĨA CƯƠNG)

Ra rạp xem phim

“Ra rạp xem phim” là một khẩu ngữ, đã đạt tới mức là một thành ngữ thân thương ở hồi trong trắng bao cấp. Với rất nhiều trung niên hay thiếu phụ thị dân Hà thành, điện ảnh sang trọng phải là phim chiếu rạp.