Với nhà thơ - nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc văn hóa dân tộc thiểu số là sự tụ bồi của linh khí đất đai, là “trí khôn cộng đồng” mà mỗi thế hệ phải gìn giữ. Suốt gần nửa thế kỷ, bà lặng lẽ sưu tầm, phục dựng, truyền dạy và xây dựng không gian văn hóa Thái ở bản Mạ (Lai Châu) như một cách trả món “nợ ân tình” với núi rừng. Cuộc trò chuyện của bà với Báo Nhân Dân chất chứa những suy tư, trăn trở và niềm tin bền bỉ về văn hóa Tây Bắc trong dòng chảy lịch sử dân tộc.

Một mạch nguồn quý báu, bền bỉ chảy

Là người sống trọn đời với miền núi và văn hóa dân tộc thiểu số, bà nhìn nhận vai trò của văn hóa các dân tộc Tây Bắc như thế nào trong dòng chảy văn hóa của dân tộc 80 năm qua?

Tôi luôn tin rằng, văn hóa các dân tộc Tây Bắc là một mạch nguồn quý báu, bền bỉ chảy trong cơ thể của non sông Việt Nam.

Trong suốt 80 năm qua, từ kháng chiến đến xây dựng, từ gian khó đến đổi mới, những giá trị văn hóa bản địa, từ tiếng nói, chữ viết, điệu hát, lễ hội đến tri thức bản địa, đều đóng vai trò như một môi trường, một “phương tiện” giữ gìn hồn cốt dân tộc. Đồng bào nơi đây không chỉ là người giữ đất, giữ rừng, mà còn là người gìn giữ ký ức và bản sắc. Văn hóa của họ là một thứ “trí khôn cộng đồng”, không ồn ào nhưng sâu sắc, không phô trương nhưng bền vững. “Trí khôn” này đã tạo nên từ cốt cách của các tộc người sống trong vùng thiên nhiên và văn hóa Tây Bắc.

Trong tiến trình 80 năm dựng nước và giữ nước thời hiện đại của dân tộc Việt Nam ở phía tây Tổ quốc, không thể phủ nhận, đều ít nhiều được kế thừa kinh nghiệm lập bản, dựng mường trong lịch sử của các dân tộc.

Lễ hội Gầu Tào vùng cao Trạm Tấu. Ảnh: THANH SƠN

Lễ hội Gầu Tào vùng cao Trạm Tấu. Ảnh: THANH SƠN

Gắn bó nhiều thập niên với cộng đồng người Thái, người Lự, người Hà Nhì..., bà hẳn đã thấm thía những lớp văn hóa sâu thẳm trong đời sống của họ. Theo bà, đâu là những giá trị cốt lõi, như một “hằng số văn hóa”, đã giúp các dân tộc ấy giữ được bản sắc trước bao biến thiên? Và giữa những áp lực hiện đại hóa, chúng ta cần làm gì để những giá trị đó không bị mai một?

Cái sâu thẳm và bền vững nhất trong văn hóa các tộc người, theo tôi, không nằm ở hình thức bề nổi mà ở tinh thần, ở nếp sống cộng đồng, ở tín ngưỡng gắn bó với tự nhiên, ở ngôn ngữ mẹ đẻ và kho tàng tri thức dân gian được lưu truyền từ đời này sang đời khác.

Mỗi dân tộc có một cách gìn giữ và biểu đạt riêng: người Thái với mái nhà sàn, khung cửi, điệu xòe đoàn kết; người Lự với lối sống thanh đạm, mỹ cảm tinh tế trong từng đường kim mũi chỉ, váy áo; người Hà Nhì gắn bó thiêng liêng với núi rừng, chu kỳ nông nghiệp và những lễ hội truyền thống như Hồ Sự Chà, Jé Khù Chà, Gạ Ma Thú; người H'Mông có Gầu Tào, lễ hội lớn nhất trong năm và gần 50 điệu khèn ngân vang khắp bản làng. Đó đều là những kho báu làm nên dung mạo văn hóa riêng biệt của mỗi tộc người, là tài sản vô giá không thể đem đánh đổi lấy tiện nghi hiện đại, nếu ta còn trân trọng nguồn cội của mình.

Tôi từng chứng kiến một lớp người gìn giữ di sản ấy. Hơn 50 năm trước, ở bản Xá Đán, tôi được nghe các cụ ông, cụ bà người Thái hát kể sử thi Quám Táy Pú Xấc, lời kể về các cụ đánh giặc; Quám Táy Tố Mường, lời kể về người Thái lập bản, lập mường; hay Xúng chụ xon xao - khúc tiễn dặn người yêu... bằng tiếng Thái. Rồi từng người một lặng lẽ đi về Mường Then với tổ tiên. Tôi đã khóc, vì thấy những phần hồn vía của bản làng đang dần khuất lấp, trong khi lớp trẻ mải miết chạy theo tiền bạc, nhà to, điện thoại, phố phường...

Bạn hỏi tôi đâu là cách giữ gìn di sản văn hóa một cách thiết thực nhất?

Tôi nghĩ, các di sản ấy chỉ thực sự sống khi ở đúng nơi chúng được sinh ra. Cách bảo tồn hiệu quả nhất là đưa văn hóa bản địa trở về với chính cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ, bằng giáo dục, bằng sinh kế. Phải dạy cho các em từ trong bản, trong trường học, biết yêu điệu hát của dân tộc mình, biết chơi trò chơi dân gian, biết múa, biết thổi khèn, biết kể chuyện bản làng như kể về chính gia đình mình. Đồng thời, văn hóa phải đi cùng sinh kế, để người dân thấy giá trị văn hóa là thứ có thể nuôi sống mình, không chỉ để trưng bày làm du lịch.

Cách bảo tồn hiệu quả nhất là đưa văn hóa bản địa trở về với chính cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ, bằng giáo dục, bằng sinh kế. Phải dạy cho các em từ trong bản, trong trường học, biết yêu điệu hát của dân tộc mình, biết chơi trò chơi dân gian, biết múa, biết thổi khèn, biết kể chuyện bản làng như kể về chính gia đình mình. Đồng thời, văn hóa phải đi cùng sinh kế, để người dân thấy giá trị văn hóa là thứ có thể nuôi sống mình, không chỉ để trưng bày làm du lịch.
Nhà thơ - nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc

Ở Lai Châu, những năm gần đây đã làm được điều đó. Tỉnh có Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 17/2/2021, với nội dung bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc gắn với phát triển du lịch giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030. Căn cứ vào đó, các địa phương xây dựng kế hoạch cụ thể từng giai đoạn. Đến nay, 100% thôn bản đã có Đội văn nghệ và Câu lạc bộ bảo tồn di sản; 100% trường phổ thông duy trì hoạt động Câu lạc bộ văn nghệ dân gian.

Riêng tôi và các nghệ nhân ở xã Mường Cang đã trực tiếp truyền dạy dân ca, dân vũ, trò chơi dân gian cho hơn 40 trường, từ mầm non đến THCS trên địa bàn huyện Than Uyên cũ và một số nơi khác.

Tôi cũng tham gia biên soạn chương trình Giáo dục địa phương, cùng các thầy, cô giáo thiết kế bài giảng từ lớp 2 đến lớp 9, để học sinh học kỹ năng làm hướng dẫn viên du lịch, biết kể chuyện về quê hương mình qua tranh, ảnh, poster. Khi một đứa trẻ người H'Mông hay người Hà Nhì biết giới thiệu lễ Gầu Tào hay Jé Khù Chà bằng giọng đầy tự hào, thì tôi tin, gốc rễ văn hóa đã được giữ lại rồi.

“Người đi nhặt hồn vía" các giá trị văn hóa bản địa

Từ một nhà thơ, điều gì đã dẫn bà đến với con đường trở thành một “người đi nhặt hồn vía” cho các giá trị văn hóa bản địa? Có phải cũng từ một “món nợ với núi rừng”?

Vâng, đúng là một món nợ, món nợ ân tình sâu nặng với mảnh đất đã nuôi tôi lớn. Tôi đã đi bạc tóc nương đồi, mường bản; tôi mở mòn chân cửa núi. Tôi đã sống một cuộc đời đáng sống cho miền văn hóa Tây Bắc thân yêu này.

Nếu ai đó hỏi tôi “bạn là ai?”, thực lòng tôi không biết phải trả lời ngắn gọn thế nào.

Tôi là người đàn bà Thái ngồi bên khung cửi, dệt hình hài những ước mơ của tổ tiên mình từ trong tiềm thức, vừa dệt vừa ru những đứa trẻ trong nôi, mong nó lớn nhanh thành trai bản, gái mường.

Tôi là bà Then, ông Mo dẫn đoàn quân Then - mo vô hình lên Mường Then (mường trời) cầu an lành cho dân mường, cho Đất mường.

Tôi là người mẹ Hà Nhì địu con trước bụng, cõng gùi thóc sau lưng, đầu đội mưa nắng, sấm chớp, băng ba cánh rừng về bản cùng trăng.

Tôi là người cha H’Mông xả đất, dẫn nước khe về khai ruộng bậc thang, nuôi đàn con khôn lớn để nối dài cội rễ dòng họ. Tôi là đại bàng vua bầu trời nhưng tổ của mình vẫn ẩn trong hang đá, là đất, đá, cỏ, cây... Tôi đã sống rất nhiều phiên bản, và đang còn sống trọn vẹn từng phiên bản ấy mỗi ngày trong đời thường.

Rồi chính con đường thơ dẫn tôi đi vào ngõ ngách ký ức dân tộc. Tôi nhận ra: Mình không thể chỉ là người ghi chép, tôi phải trở thành người gìn giữ. Gần 50 năm nay, tôi bắt đầu sưu tầm, ghi chép, phục dựng để bảo tồn di sản văn hóa của các tộc người. Nếu văn hóa là “hồn vía của một tộc người” thì tôi nguyện làm kẻ lang thang đi nhặt hồn vía ấy, mong giữ lại được phần nào giá trị nhân bản đang dần mất hút trong gió núi.

Nếu văn hóa là “hồn vía của một tộc người” thì tôi nguyện làm kẻ lang thang đi nhặt hồn vía ấy, mong giữ lại được phần nào giá trị nhân bản đang dần mất hút trong gió núi.

- Nhà thơ - nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc -

Bà từng bán nhà, bán đất của mình để xây dựng Bảo tàng Không gian văn hóa Thái ở bản Mạ, động lực nào mạnh mẽ đến mức khiến bà quyết tâm làm điều đó?

Tôi lớn lên nhờ ngô, sắn nương đồi, nhờ những bài đồng dao, trò chơi dân gian, tiếng trống, tiếng chiêng, những điệu then đầy huyền tích. Tôi từng mê mẩn những chuyện xửa chuyện xưa, nơi có đủ các loại thần, tiên, ma, quỷ, lành có, dữ có, độc ác có, tất cả quy về đạo trời, gieo nhân nào gặt quả nấy. Những niềm tin ấy ngấm vào tôi như máu thịt.

Và rồi một ngày tôi ngỡ ngàng khi trẻ con không còn chơi trò chơi xưa, không hát đồng dao; thanh niên không hát dân ca, không thổi sáo, đánh chiêng, khua trống; người già không còn kể chuyện bên bếp lửa nữa... Và tôi sợ.

Tôi sợ một ngày trẻ con người Thái hỏi “Mẹ ơi, Then là gì? Mo là ai?”, mà không ai trả lời được. Tôi sợ trẻ con Hà Nhì hỏi “Cha ơi, Jé Khù Chà là gì?”, mà không ai nhắc lại được. Tôi sợ trẻ con Si La hỏi “Vì sao quan tài gọi là ngựa? Vì sao trên đỉnh cây nêu có đại bàng gỗ?”, rồi cũng không ai nhớ...

Nỗi sợ ấy không đơn lẻ, nó thành động lực. Tôi bán tất cả những gì có thể: nhà, đất, xe, bàn ghế... để mua đất dựng không gian văn hóa Thái thu nhỏ giữa bản Mạ.

Phòng đọc cộng đồng trong không gian văn hóa Thái của nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc.

Phòng đọc cộng đồng trong không gian văn hóa Thái của nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc.

Không phải bảo tàng theo nghĩa thông thường, mà là nơi bảo tồn “sống”. Tôi cùng các nghệ nhân tổ chức dạy đồng dao, trò chơi dân gian, dân ca, dân vũ, chế tác nhạc cụ truyền thống. Tôi lập thư viện cộng đồng, nơi hội tụ đọc sách, gặp gỡ văn nghệ sĩ, sinh viên nước ngoài, nơi chăm sóc nghệ nhân, dịch tài liệu cổ...

Tôi luôn quan niệm: “Bảo tồn sống tại cộng đồng” là cách duy nhất để bảo tồn bền vững di sản văn hóa tộc người. Tôi không muốn văn hóa dân tộc chỉ còn là vật trang trí, hay bị cải biên kệch cỡm. Tôi muốn nó sống, đúng ở nơi nó sinh ra.

Tôi luôn quan niệm: “Bảo tồn sống tại cộng đồng” là cách duy nhất để bảo tồn bền vững di sản văn hóa tộc người. Tôi không muốn văn hóa dân tộc chỉ còn là vật trang trí, hay bị cải biên kệch cỡm. Tôi muốn nó sống, đúng ở nơi nó sinh ra.

- Nhà thơ - nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc -

Trong hành trình gần 50 năm sưu tầm, phục dựng lễ hội, dân ca, nghề thủ công... thành quả nào khiến bà xúc động nhất? Và có điều gì bà vẫn day dứt vì “chưa kịp làm”?

Tôi xúc động nhất là khi phục dựng được ba lễ hội lớn của người Thái ở vùng Mường So: Lễ hội Nàng Han (Pang Náng Han), Lễ hội Cốm (Pang Khẩu Mẩu) và Lễ hội Then (Kin Pang Then). Đó không chỉ là lễ hội, mà là không gian văn hóa tổng hợp, là tâm linh, là lịch sử, là trí nhớ cộng đồng.

Năm 2008-2009, khi tôi được Tỉnh ủy Lai Châu giao nhiệm vụ phục dựng, đã 60 năm trôi qua kể từ lần cuối các lễ hội này được tổ chức. Mo mường cấp cao, những người có quyền phép lớn, thì không còn. Các mo bậc dưới thì e ngại, sợ trái ý Nàng Han sẽ bị trừng phạt. Lời khấn cúng thất truyền. Tôi phải tổ chức một lễ tế Nàng để xin phép, để cầu được phù hộ. May thay, sau đó các mo đã đồng lòng. Một cụ già giữ được cuốn sách viết tay bằng chữ Thái cổ trên giấy dó, ghi lại toàn bộ văn khấn trong lễ tế Nàng Han. Nhờ có bản văn ấy, chúng tôi phiên âm, đánh máy, phát cho các mo học thuộc.

Nhà nghiên cứu Đỗ Thị Tấc cùng các nghệ nhân truyền dạy trò chơi dân gian cho trẻ em dân tộc Thái, Mường Cang.

Nhà nghiên cứu Đỗ Thị Tấc cùng các nghệ nhân truyền dạy trò chơi dân gian cho trẻ em dân tộc Thái, Mường Cang.

Nhờ ơn Nàng Han, nhờ sự vào cuộc của Đảng bộ, chính quyền xã và lòng dân, cả ba lễ hội được phục dựng thành công. Và điều kỳ diệu là từ đó đến nay, các lễ hội này đã được tỉnh đầu tư và duy trì tổ chức thường niên.

Bạn hỏi tôi có điều gì day dứt ư? Có, nhiều lắm. Tôi gọi đó là “những cuộc chạy đua với thần chết”. Nếu tôi đến muộn, nghệ nhân mất đi thì không gì thay thế được tri thức họ mang theo. Tôi từng thua thần chết nhiều phen.

Cách đây gần 20 năm, tôi xin nghỉ phép, mang theo lương tháng, tự lái xe máy đến bản Nậm Tăm 2 (xã Nậm Tăm, huyện Sìn Hồ) để phục dựng trò chơi dân gian và hát đồng dao của trẻ em dân tộc Lự. Ở đó, tôi gặp cụ Tao Văn Păn, 93 tuổi, một nghệ nhân hát kể, kể chuyện, thổi sáo, truyền bá văn nghệ dân gian qua những chuyến đi buôn dọc ngang Tây Bắc.

Mỗi ngày tôi chỉ có thể trò chuyện hai tiếng vì cụ yếu. Nhưng tôi thầm cảm ơn Trời Phật cho mình gặp được cụ. Trước khi rời đi, tôi hẹn: “Ba tháng nữa con quay lại. Con sẽ mang tặng cụ chiếc áo bông mặc mùa đông. Nhớ đợi con nhé!”. Cụ cười, gọi chị con dâu gói cho tôi nắm xôi mang đi ăn đường. Nhưng chưa đầy một tháng sau, cụ đã mất. Tôi không kịp trở lại.

Nỗi đau thứ hai, tôi không bao giờ quên, là nghệ nhân Hù Cố Phày, người Si La ở bản Xì Thâu Chải, xã Kan Hồ, huyện Mường Tè. Năm 2013-2015, tôi và các đồng nghiệp về đây nhiều lần để ghi chép, phục dựng lễ hội, dân ca, dân vũ... Tộc người Si La chỉ có dưới 1.000 người, nên mỗi nghệ nhân là một kho báu.

Chị Hù Cố Phày hát sử thi Si La, giọng hát ấy khiến người nghe gai người, dù không hiểu ngôn ngữ. Khi chị hát bài “mồ côi”, người nghe bật khóc. Sau chuyến điền dã, tôi hứa sẽ mời chị và các nghệ nhân ra Lai Châu chơi. Nhưng chỉ năm ngày sau, tôi nhận điện thoại: “Cô Phày bị chồng đâm chết rồi”. Tôi chết lặng. Không muốn tin.

Chị mang theo giọng hát ma mị cùng những bài dân ca không ai thay thế được. Sau này dù tôi nhờ các cô gái Si La khác hát lại, nhưng không ai có được giọng hát thần khí như chị.

Mỗi nghệ nhân ra đi là một phần ký ức của một nền văn hóa mất theo. Tôi ước mình có tiền để chăm sóc sức khỏe cho họ, chia sẻ khó khăn trong cuộc sống với họ. Họ không cùng huyết thống với tôi, nhưng tôi tin, ở một kiếp nào đó, tôi và họ cùng một bộ tộc, cùng một cội nguồn.

Tôi chỉ mong mình còn đủ sức khỏe, thời gian, để tiếp tục viết tiếp, viết hết những gì tôi đang có, đang nhớ, đang đau đáu, về một miền văn hóa, một vùng đất, và những phận người từng ở đó, đang ở đó...

Mỗi nghệ nhân ra đi là một phần ký ức của một nền văn hóa mất theo. Tôi ước mình có tiền để chăm sóc sức khỏe cho họ, chia sẻ khó khăn trong cuộc sống với họ. Họ không cùng huyết thống với tôi, nhưng tôi tin, ở một kiếp nào đó, tôi và họ cùng một bộ tộc, cùng một cội nguồn. Tôi chỉ mong mình còn đủ sức khỏe, thời gian, để tiếp tục viết tiếp, viết hết những gì tôi đang có, đang nhớ, đang đau đáu, về một miền văn hóa, một vùng đất, và những phận người từng ở đó, đang ở đó...

- Nhà thơ - nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc -

Thơ của bà được ví như lời thì thầm của núi rừng. Theo bà, thơ có thể làm được gì trong việc giữ gìn văn hóa dân tộc?

Một câu hỏi thú vị. Người ta có thể viết cả một cuốn sách để trả lời cho câu hỏi này. Với dung lượng của cuộc trò chuyện hôm nay, tôi chỉ xin nói thiển ý của mình.

Thơ là một thành tố của văn hóa, mà đã là văn hóa, thì nó không đứng ngoài việc giữ gìn, truyền nối. Thơ không chỉ chuyển tải cảm xúc cá nhân, mà mang trong nó lịch sử, huyền thoại, địa lý, tâm linh và trí nhớ tập thể của một dân tộc.

Ở Tây Bắc chúng tôi, lịch sử lập bản dựng mường, bước đường chinh chiến mở mang bờ cõi... đều được thể hiện bằng thơ. Người Thái vẽ bản đồ vũ trụ từ cổng đất, cổng trời, qua sông Ngân Hà, lên đến mường của thần ánh sáng, tất cả được kể bằng thơ.

Bạn thấy đấy, rất nhiều dân tộc có sử thi. Tây Nguyên có sử thi "Đăm Săn", "Xinh Nhã", "Đăm Di"... Những sử thi ấy là thơ, mà cũng là văn hóa, là linh hồn dân tộc. Thơ, theo tôi, không thay thế văn hóa, nhưng nó kích hoạt ký ức văn hóa trong người đọc. Nó gọi lại tiếng nói tổ tiên, gợi về nếp sống cũ, nhắc người ta nhớ mình từ đâu đến.

Tôi nhớ có ai đó từng nói: “Thơ là hình thức lưu giữ phi vật thể có thể vượt qua thời gian”. Với tôi, điều đó hoàn toàn đúng.

Thơ, theo tôi, không thay thế văn hóa, nhưng nó kích hoạt ký ức văn hóa trong người đọc. Nó gọi lại tiếng nói tổ tiên, gợi về nếp sống cũ, nhắc người ta nhớ mình từ đâu đến. Tôi nhớ có ai đó từng nói: “Thơ là hình thức lưu giữ phi vật thể có thể vượt qua thời gian”. Với tôi, điều đó hoàn toàn đúng.

- Nhà thơ - nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc -

Nếu cần gửi gắm một điều cho thế hệ trẻ, những người sinh ra xa rừng, xa bản, xa khèn, xa then... bà muốn nói điều gì về căn cước văn hóa dân tộc?

Tôi đã nhiều năm được mời giảng dạy, trò chuyện với học sinh các trường dân tộc nội trú, trường phổ thông trong tỉnh, trong khu vực về ý nghĩa, giá trị của các “di sản văn hóa trong tiến trình sinh tồn và phát triển của mỗi con người và mỗi cộng đồng người”.

Ở mỗi buổi gặp, tôi luôn kết thúc bằng lời dặn rất giản dị mà tôi nghĩ như một lời gửi gắm: “Các con ơi! Các con có thể hát những bài hát nước ngoài bằng thứ tiếng của họ, có thể nhảy các điệu hiện đại, sống trong biệt thự cao tầng sang trọng... Nhưng xin các con đừng đánh mất những bài dân ca, bản đàn, điệu múa... Đừng đánh rơi cung cách sống và những câu chuyện kể dân gian của dân tộc mình. Đó là tấm “căn cước văn hóa” mà tổ tiên trao truyền, hãy tự hào và biết ơn vì điều đó. “Ai luôn mang theo lòng biết ơn thì người đó sẽ không gặp cảnh cùng đường” ông bà mình dạy thế mà. Đừng để đến một ngày - linh hồn các con sẽ bơ vơ ngay trong chính ngôi nhà của mình, của con cháu mình”.

Căn cước văn hóa không phải thứ người khác ban phát, nó hình thành từ chính dòng máu, từ giấc mơ, từ tiếng ru, tiếng nói mẹ đẻ, từ những điều thẳm sâu mà cả khi thân xác ta đã rã nát đi rồi, linh hồn mình vẫn còn nương náu vào nó. Tiếng nói thiêng liêng lắm. Đó là kênh dẫn là thanh âm để tổ tiên nghe được lời nguyện cầu của các con mà tìm đến. Các con có thể đi xa, nhưng đừng để lạc mất tiếng gọi từ nguồn cội. Hãy học, hãy biết, hãy trân trọng ngôn ngữ mẹ đẻ. Đừng xấu hổ vì mình đến từ bản, từ rừng. Người có gốc là người không bao giờ đi lạc. Tôi ngày ngày nói với lớp trẻ bản, mường như vậy đấy. Và tôi luôn tin, văn hóa của một tộc người, một dân tộc có thể bị đứt gãy trong một thời đoạn lịch sử nào đó nhưng nó sẽ không hoàn toàn biến mất nếu như những con người trong cộng đồng dân tộc đó còn có tâm nguyện trao truyền và gìn giữ.

Trân trọng cảm ơn những chia sẻ tâm huyết của bà!

Tiếng nói thiêng liêng lắm. Đó là kênh dẫn là thanh âm để tổ tiên nghe được lời nguyện cầu của các con mà tìm đến. Các con có thể đi xa, nhưng đừng để lạc mất tiếng gọi từ nguồn cội. Hãy học, hãy biết, hãy trân trọng ngôn ngữ mẹ đẻ. Đừng xấu hổ vì mình đến từ bản, từ rừng. Người có gốc là người không bao giờ đi lạc.

- Nhà thơ - nhà nghiên cứu văn hóa Đỗ Thị Tấc -

              
Trình bày:
DIỆU THU
Ảnh: Báo Nhân Dân