Ngoại ô thương nhớ

Dù là Ðà Lạt, đô thị giữa thiên nhiên dịu mát, an lành thì cũng có những ngày cảm thấy nội ô chật chội với dòng người tấp nập và ngột ngạt khói xe. Lúc đó, chỉ muốn lên đường rời phố xá ồn ã và tìm một hướng ngoại ô thanh tịnh rồi thong thả dạo gót hít thở khí trời đậm hương vị thanh lành. Năng lượng như căng đầy hơn bởi làn nắng vàng ươm và hơi gió ngọt lạnh…

Ngoại ô Ðà Lạt, vùng ngoại ô hiếm có. Những cánh rừng bảng lảng khói sương huyền ảo. Những ngôi làng mang sắc màu thanh đạm trầm tư. Những nơi chốn thường tỏa lên mùi hương đặc biệt. Ðó là mùi của thổ nhưỡng bazan, của thảo mộc hồn nhiên, của hoa trái tốt tươi. Ðó còn là sợi khói lam thổn thức nao lòng nhớ thương mỗi độ, của nghĩa tình cố cựu từ thuở làng quê xưa từng xa rời nhưng chưa mấy nhạt phai. Hồn lữ thứ thường nhắm nơi quạnh vắng, cũng như ngoại ô thường là lựa chọn ban đầu của khách tha phương…

Ngoại ô Ðà Lạt, những vòng tròn lồi lõm cao thấp đồng tâm khuất phía sau mặt tiền chảnh chọe của phồn hoa đô hội. Có một thời chưa xa, ngoại ô gần như bàng quan trước những rực rỡ của xứ sở du hý nổi tiếng. Người ngoại ô thuở trước mỗi sáng sớm gom rau, hoa gánh ra chợ bán rồi lầm lũi những bóng nón trở về với làng với vườn, như hoàn toàn xa lạ với thị thành, chỉ chú tâm vào cuộc mưu sinh còn nhiều gian khó. Ngoại ô chọn lẽ ẩn mình khiêm nhường, tự chìm lẫn vào không gian tự nhiên huyền nhiệm. Ngoại ô hòa trong mầu nâu của đất, mầu xanh của rừng, hòa vào nồng nàn thiên khí. Ngoại ô như những thảm hoa văn in dáng nét mồ hôi tứa dọc rỗ ngang lưng áo cần lao. Ngoại ô là những chất chứa lo toan của đời sống rẫy nương bốn mùa nghĩ suy nỗi niềm cơm áo. Ðà Lạt xưa nay phố lẫn vào vườn, rừng lẫn vào làng, xơ xác lẫn vào phì nhiêu. Ở ngoại ô, tính cách nông dân và thị dân thật khó phân định. Phố Ðà Lạt bao đời vẫn vậy, ngoại ô của xứ sở này bao đời nay cũng vậy. Phố vẫn giữ nét an nhiên tự tại, vẫn rực rỡ sắc hoa, vẫn lung linh mặt hồ, vẫn uốn lượn đường dốc và ngoại ô vẫn đồi cao lũng thấp, vẫn bậc đá rêu phong, vẫn hoa dại giăng mắc lối đi, vẫn mãi xanh mầu cây trái tốt tươi. Ngoại ô thì phải xanh, như nếu hết xanh thì không phải ngoại ô…

Ngoại ô Ðà Lạt ở đâu? Phố trong rừng. Vườn trong phố. Bên những tòa cao ốc là những vườn rau, hoa tốt tươi. Những ngôi nhà gỗ thông sạm nắng bợt mưa nơi nhiều đời nông phu trú ngụ cùng hòa vào những mái ngói resort hiện đại. Phía sau những cửa hiệu, cửa hàng, những siêu thị mặt tiền sôi động mấy bước chân là lặng lẽ những bậc đá xanh rêu phủ đầy hoa dại dẫn xuống thung lũng với những chiếc giếng khơi mát lạnh đá ong và hình ảnh thôn nữ nón trắng gánh nước tưới vườn.

Lịch sử của đô thị cao nguyên này được tính từ mốc phát hiện mang yếu tố thực dân. Người Pháp dựng phố theo cách của họ và cũng chỉ phục vụ cho mục đích an trí, nghỉ dưỡng nhằm duy trì lâu dài sự cai trị đế quốc. Lịch sử lắm nỗi biến thiên. Phố mỗi ngày cũng nới rộng ra theo ý đồ thời cuộc. Những tộc người thiểu số không quen làm cư dân đô thị nên lùi về với thế giới thâm trầm cố hữu của đại ngàn để thủy chung lưu giữ lẽ sống của rừng. Họ nhường phần đất đai phì nhiêu bên những nguồn nước mát lành cổ xưa cho đồng bào từ mọi miền quê Việt đến nơi này tránh đao binh, loạn lạc rồi tụ cư lập làng, lập vườn mưu sinh, sinh con đẻ cái truyền đời. Người Nghệ Tĩnh, Hà Ðông vào lập ấp Ðông Tĩnh; người Thừa Thiên - Huế vào lập làng Ánh Sáng, Vạn Thành; người Quảng Nam, Quảng Ngãi vào lập làng Thái Phiên, Xuân Trường. Những phu hỏa xa, đồn điền, lục lộ cũng lập nên những Cầu Ðất, Sở Lăng, Trạm Hành, Trại Hầm, Xuân Thọ… Hơn một trăm năm trước, những lưu dân gánh vào quê mới những “tên xã, tên làng” rồi tự sưởi ấm tâm hồn trong những đêm rừng xưa hoang lạnh bằng nét riêng tín ngưỡng tâm linh, phong tục tập quán và văn hóa cổ truyền bản nguyên cố xứ.

Ảnh: MAI VĂN BẢO

Tôi cứ tạm vạch một đường phân tuyến, ở cái nơi nằm giữa phố thị mới hơn trăm năm và rừng cổ sinh ngàn đời là ngoại ô, là đất sống của những lưu dân chọn xứ này làm quê. Ðó là cái phần cũng thuộc về đô thị mà bản chất không muốn làm đô thị. Sống giữa thị mà cứ nghĩ mình thôn. Trên thì gọi là “phố” là “phường” mà ở dưới vẫn cứ quen kêu là “làng”, là “ấp”. Người ngoại ô khiêm tốn không muốn nhuộm cái vẻ quý phái mang tên phố xá mà muốn giữ trọn vẹn chất cần lao ruộng rẫy. Có lẽ những tên gọi hiền lành, những địa danh mộc mạc gần gũi với đất ngoại ô bốn mùa thơm hương thảo mộc, ngọt ngon hoa trái, với những nếp nhà đơn sơ, với hình ảnh người nông dân sớm sớm xỏ chân vào ủng vác cuốc ra vườn. Có lẽ, cái chất thôn dã trong mỗi con người ngoại ô mãi mãi phù hợp với những lũng cao đồi thấp thuần hậu canh nông hơn là bon chen, ồn ĩ phố xá. Người ta nói, có hơn ba phần tư diện tích của thành phố Ðà Lạt là ruộng là vườn, là ngoại ô. Ngoại ô đang níu kéo chính mình, không muốn hóa thân hoàn toàn thành phố thị, vì sợ chất phố làm nhạt chất làng. Ngoại ô muốn giữ trong lòng mình chút nắng lạnh mỗi buổi sớm mai, những mùa sương tháng giá trong lành vốn dĩ. Người ngoại ô muốn con cháu không lãng quên một thời cha ông từ miền xa lưu lạc đến đất này và tạo nghiệp canh nông truyền đời bên phần rìa đô thị. Cái phần rìa xưa với làng ấp nghèo nàn, đường sá chật hẹp, lượn lờ đồi dốc, xa ánh sáng trung tâm thành phố ấy từng viết nên những dòng lịch sử của xứ sở này. Lịch sử ngoại ô Ðà Lạt là câu chuyện về những cuộc di dân trong quá khứ: Như chuyện từ năm 1938 đến năm 1942, có gần 100 người dân tỉnh Hà Ðông cũ được Tổng đốc Hoàng Trọng Phu mộ vào đây và lập nên làng hoa đầu tiên của xứ hoa; như câu chuyện 11 trai đinh Quảng Nam được trưng dụng làm cu ly của sở trà Cầu Ðất rồi dựng nên vùng Xuân Trường, Trại Mát; như câu chuyện những người Huế, người Nghệ theo Quản đạo Phạm Khắc Hòe vào lập làng Nghệ Tĩnh, Ánh Sáng. Rồi một thời ngoại ô là chiến địa. Chiến tranh đã lê bước chân khốc liệt đi qua và xé rừng, rạch đất, phá nát làng mạc vốn rất đỗi yên lành. Ngọai ô từng hằn những vết sâu thù hận. Mầu đỏ của máu tưới thẫm đất đai. Ngoại ô trở thành vùng ven, vùng trắng, vùng ta và địch tranh chấp. Ðêm đêm đại bác ì ầm. Tiếng gà gáy cũng tắc trong cổ họng. Tiếng chó sủa cũng trở thành tâm điểm cho mọi sự nghi ngờ. Nông dân trở thành chiến binh. Du kích mật len lỏi trong vùng địch tạm chiếm để gây dựng phong trào. Giày thù nhón gót rình rập mọi góc vườn, rãnh nước. Tiếng súng đạn lách cách khua nhói đêm hoang vắng, lạnh thấm đau thương. Lịch sử ngoại ô hàng chục năm ròng được viết lên bằng máu, bằng nước mắt, bằng mồ hôi của bao lớp nông phu. Trong các đình làng ngoại ô Ðà Lạt ngày nay, công trạng của các bậc tiền hiền khai canh và các vị anh hùng giữ đất được lưu danh trang trọng…

Tôi không đủ văn chương để mô tả đời sống đa sắc, đa thanh ở những nơi này, không đủ ngôn từ để chuyển trao trọn vẹn cảm xúc. Tôi chỉ biết trong tâm hồn vốn mẫn cảm của mình luôn đủ chỗ dành cho ngoại ô, miền ngoại ô thương nhớ. Cái vùng ngoại vi của phố thị Ðà Lạt nhiều vườn lắm rừng, tốt rau, tươi hoa vốn đi về trong những miền ký ức, trong nỗi niềm hoài niệm của nhiều người. Mỗi sáng mai thức dậy mắt đã chạm ngoại ô, những ô vườn và những mái nhà, những nông dân đội sương sớm gánh rau ra chợ, vậy mà nỗi nhớ ngoại ô đôi khi vẫn dâng lên rưng rức trong hồn. Thật lạ lùng cái xứ sở này, khói sương cứ lả lướt trôi qua làm lòng người đôi khi chùng chình khó tả.

Ngoại ô bây giờ không còn quạnh vắng. Ngoại ô sầm uất, ngoại ô năng động và giàu có. Người vùng ven Ðà Lạt hái ra tiền nhờ nền nông nghiệp hiện đại phát triển chưa từng thấy. Nhiều nhà vườn lâu nay chỉ biết sương nắng với rau, với hoa nay mở thêm du lịch canh nông để thỏa hồn du khách. Xóm làng xưa với những túp nhà nhỏ gỗ thông như những tổ chim treo bên những triền dốc nay thay thế bằng những quần thể biệt thự khang trang. Mừng là vậy mà nỗi ưu tư cũng dày lên khi ngoại ô đang bị đổi thay, chia chác, đang phai nhạt dần cái chất “tinh khiết nông phu” vốn có. Cuộc chồng lấn bất thường từ làn sóng đô thị hóa nhanh như thác lũ đã làm cho ngoại ô biến dạng. Vẫn biết quy luật phát triển gây nên bùng vỡ, nhưng không dừng lại sẽ trở thành vô nghĩa bạc tình với ngoại ô. Ðà Lạt giữ được ngoại ô sẽ giữ được vườn tược, khói sương, giữ sự thuần khiết trong lành của tự nhiên, giữ mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn của nhiều thế hệ…

Có thể bạn quan tâm

Chưa bao giờ B. lại thấy nhà mình tràn ngập hoa cúc vàng dịp 20/11 như năm nay.

Chuyện của những đóa cúc vàng

"Năm nào, đến 20/11, ba mẹ em cũng mở cửa từ sáng tới chiều không kịp đóng vì cứ 15-20 phút lại có tốp trò cũ đến thăm. Hoa hồng nhiều lắm. Ba mẹ phải chuẩn bị sẵn hai cái thùng to dưới bếp để ngâm nước, sợ héo. Năm nay, nhà toàn hoa cúc vàng, nhìn lạ quá", N.Đ.B. (TP Thủ Đức) đưa mắt nhìn quanh nhà một lượt rồi lặng lẽ ra ghế ngồi. Ngoài trời, mưa tầm tã rơi.

Thành phố đã tỉnh lại, sau một cơn mê dài.

Một cuộc đời bình thường là hạnh phúc

Mẹ tôi bảo: "Giờ ra đường gặp lại ai cũng mừng. Thấy người đó còn khỏe mạnh là vui lắm rồi". Gần hai tháng sau khi TP Hồ Chí Minh hồi phục, dư chấn đại dịch vẫn in hằn. Song, nếu thành phố có phần nào "chậm" lại, thì cuộc đời lại có phần sâu sắc và gắn kết hơn.

Lãnh đạo tỉnh Yên Bái và ngành Y tế chia tay các thành viên Đoàn công tác lên đường hỗ trợ TP Hồ Chí Minh. Ảnh: Việt Dũng - TTXVN

Triệu triệu trái tim chung nhịp đập

TP Hồ Chí Minh đang trong những ngày giãn cách xã hội, khó khăn nhiều bề. Nhưng người dân nơi đây không đơn độc! Con cá ngon ở miệt biển, mớ rau xanh, cân gạo tận miền núi cao… được các tình nguyện viên, bà con chuyển đến vùng tâm dịch, các khu cách ly.

Không gian một thư viện hiện đại Utopia ở Bỉ.

Thư viện hiện đại và "bộ gene" chia sẻ

Biết tôi học nghề thư viện tại Bỉ, bạn bè gốc Việt lắc đầu "tranh nổi việc với dân bản xứ không". Học viên bản xứ cũng băn khoăn: "Bây giờ Google trả lời trong một nốt nhạc, đọc sách online, xem báo miễn phí. Ai vào thư viện?". Giảng viên dạy Nhập môn cười: "Ðấy, còn hỏi, còn băn khoăn nghĩa là còn cần thư viện".

Sau những bất đồng, cả hai lại thấu hiểu nhau hơn, cùng nhau vượt qua những chênh vênh.

Thể dục và "cái duyên không được bỏ lỡ"

10 năm yêu nhau và bảy năm nên duyên vợ chồng, chuyện tình đẹp như mơ giữa Trương Minh Sang - Nguyễn Thu Hà có lẽ luôn là ý niệm đầu tiên lóe lên trong suy nghĩ nhiều người, khi nhắc đến "những cặp đôi vàng" trong làng thể thao Việt Nam.

Cụ Giáo luôn mong muốn truyền thống tốt đẹp của gia đình được các cháu, chắt hiểu và gìn giữ.

Mạch nguồn bất tận

Liệu còn những kết cấu "tứ đại đồng đường" êm ấm, thuận hòa trong xã hội hiện đại đầy phức tạp ngày nay? Cũng chẳng khó để tìm câu trả lời, khi tôi tìm gặp được không ít gia đình có cách "quản trị" độc đáo, giúp các thành viên luôn duy trì được những mạch nguồn gắn kết.

Một người phụ nữ trong xưởng HTX cộng đồng.

Những lựa chọn ở Nậm Đăm

Lý Văn Quang nói đang hoàn thiện thêm một dãy nhà bungalow, ngoài bốn căn bungalow (kiểu nhà một tầng phổ biến ở các khu nghỉ dưỡng) đang hoạt động. Mô hình bungalow của cậu có vẻ hút khách. Cuộc khởi nghiệp của anh chàng người Dao làng văn hoá Nậm Đăm (huyện Quản Bạ, Hà Giang) có vẻ rất khả quan, ngay cả vào cái “năm Covid” đang khiến cả ngành du lịch điêu đứng.

Dzũ Kha, người giữ lửa thơ Hàn.

Thơ còn rực lửa bên đồi Thi nhân

Đã 80 năm thi sĩ Hàn Mặc Tử hết duyên trần (11-1940 - 11-2020). Thời gian ấy tưởng đâu xa lơ xa lắc so với 28 năm vụt sáng chốn dương gian này của người thơ. Nhưng không, như một câu của Hàn Mặc Tử, “một mai kia ở bên khe nước ngọc, với sao sương anh nằm chết như trăng”, thì cảnh ấy, người ấy, thơ ấy, thêm những mối lương duyên tuyệt đẹp của cả đời xưa lẫn đời nay đã thành bất tử. Gió Ghềnh Ráng - Quy Nhơn vẫn lồng lộng thổi, trăng vẫn sáng trong và thơ Hàn còn nguyên lửa ấm.

Chiến sĩ Trần Thành, đoàn viên Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu, ôm bom ba càng, sẵn sàng tiêu diệt xe tăng địch trên đường phố Thủ đô Hà Nội ngày 23-12-1946 - những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, với ý chí "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Ảnh: Nguyễn Bá Khoản (TTXVN)

Nhiếp ảnh dân tộc từ Mùa thu Cách mạng

Cách mạng và các nhà nhiếp ảnh Việt Nam yêu nước tiền bối đã vạch cho nhiếp ảnh Việt Nam một sứ mệnh: Rời cửa hiệu xuống đường đấu tranh, trực tiếp viết sử bằng ống kính của mình. Và họ đã viết rất trung thực, sinh động bằng tất cả trí tuệ, tình cảm… thậm chí bằng máu và nước mắt của cả người cầm máy lẫn người trong ảnh.

Diều sáo phiêu du

Diều sáo phiêu du

Bá Dương Nội, xã Hồng Hà (Đan Phượng, Hà Nội) không chỉ nổi tiếng với thương hiệu làng của những đô vật nổi tiếng, mà còn được biết đến với thú chơi diều độc đáo đã trở thành nét văn hóa. Điều thú vị, cũng bắt đầu từ cánh diều ấy mà nghệ nhân ưu tú (NNƯT) Nguyễn Hữu Kiêm (bên phải) đã góp phần quảng bá đất nước, con người Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Mộ ông Bửu Ðiềm.

Thắp một nén hương, lòng tưởng niệm

Ðiềm Phùng Thị (tên khai sinh Phùng Thị Cúc - sinh năm 1920) là một ngôi sao tỏa sáng của nghệ thuật tạo hình thế giới, đặc biệt về ngành điêu khắc. Bà được bầu làm Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học, Văn học và Nghệ thuật châu Âu, và là một trong hai người châu Á hiếm hoi có tên trong Từ điển Larousse: Nghệ thuật đương đại thế kỷ XX, xuất bản năm 1991.

Dòng Pô Kô, đoạn chảy qua địa phận huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai.

Qua tháng ngày hỏi sông ơi có nhớ...

Không nhớ là năm nào nữa, lâu lắm rồi, cái thời còn bao cấp ấy, một lần ghé Nha Trang, hẹn mấy anh em ngồi với nhau. Hồi ấy ngồi vui lắm. Là cứ hẹn thế còn... tiền đâu mà ngồi thì không biết. Trong một lần mấy anh em văn nghệ ngồi với nhau như thế thì ông nhà thơ Trần Chấn Uy chở tới một ông già khá hom hem và luộm thuộm nữa. Nghĩ chắc người nhà ông Uy ngoài quê mới vào, ổng chở tới chơi luôn. Nhưng khi vào, ổng mới trịnh trọng giới thiệu: “Nhạc sĩ Tố Hải, Đăk Rông mùa xuân về”.

Các con của chị Thanh cùng mẹ làm băng-rôn bằng ba thứ tiếng Hà Lan - Việt Nam - Anh, cảm ơn những người đang ngày đêm nỗ lực cứu chữa bệnh nhân, phục vụ cộng đồng.

Sự sống trong tầm tay

Những cô thợ may gốc Việt bé nhỏ ở Bỉ, Ðức cặm cụi làm khẩu trang miễn phí. Một Việt kiều tại Anh có bệnh lý nền nhắn tin “Tôi không về nước tránh dịch lúc này bởi nhiều lý do, trong đó có lý do nguy cơ lây nhiễm ở sân bay và trên máy bay”. Mỗi người dân đều có thể gìn giữ được sinh mạng quý giá cho nhau bằng những hành động có ý thức, ngay trong tầm tay lúc này.

Có rất nhiều nghịch lý ở câu chuyện tranh Đông Hồ. Ảnh: NGÔ VƯƠNG ANH

Số phận những dòng tranh dân gian Việt

Tranh dân gian Việt Nam có giá trị không? Câu trả lời, dĩ nhiên là có. Nó đã được khẳng định nhiều lần bởi các nhà khoa học, giới mỹ thuật. Nhưng có bao nhiêu người Việt hiện đại còn treo tranh dân gian để trang trí nhà cửa? Tưởng như nghịch lý, nhưng câu trả lời, dĩ nhiên là rất hiếm. Nếu không thể tìm ra phương thức để thích ứng với thị trường, với cuộc sống, thì tình trạng trên, chắc chắn, sẽ còn kéo dài.

Thu hoạch tầm vông.

Tầm vông xanh miền biên ải

Ðã cuối mùa mưa. Biên viễn Tây Nam khét khô mùi nắng. Những cung đường vùng Bảy Núi - từng là căn cứ oanh liệt trong các cuộc chiến đấu vệ quốc của quân và dân An Giang anh hùng, dường như được xoa dịu đôi phần bởi bạt ngàn tầm vông xuất hiện hai bên đường, trước ngõ nhà, đường lên núi... Bất chấp sự khô cằn, tầm vông vẫn vươn cao, thẳng tắp…

“Hoa của Mỷ” chụp năm 2018

Hoa của đá

Hà Giang, mùa hoa tam giác mạch. Khi nắng chớm đông rắc ánh sáng trên những ruộng hoa phớt tím, những đứa trẻ vùng cao đã biết phải tất bật cho một mùa vụ đón khách phương xa. Du lịch thay đổi sâu sắc đất và người nơi đây. Song, không có nhiều em nhỏ biết, chính những con chữ mới đủ sức đưa chúng đến với chân trời dài rộng, bên ngoài những vách đá dựng trập trùng.

Những mùa hoa ở lại...

Những mùa hoa ở lại...

“Hà Nội, thủ đô của hương, của hoa” như cách gọi của nhà văn Băng Sơn, cất giữ cho mình 12 mùa hoa theo vòng quay của năm. Dẫu có những khoảng thời gian thật dài, đâu đó những mùa hoa bị lạc nhịp trong đời sống đô thị, nhưng mạch chảy ký ức chưa bao giờ ngừng nghỉ trong tâm thức người Hà thành. Để rồi đâu đó, vẫn có những thế hệ tiếp nối kể câu chuyện về những mùa hoa.

Đón ánh bình minh đầu tiên trên dải đất hình chữ S.

Đón hừng đông ở cực đông Tổ quốc

Trước đây, mũi Đại Lãnh (Phú Yên) nổi tiếng với danh hiệu “Nơi đón ánh bình minh đầu tiên trên đất liền Việt Nam”. Tuy nhiên, sau khi tiến hành đo đạc chính xác, Cục Di sản văn hóa - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ghi nhận mũi Đôi (Khánh Hòa) ở vị trí 109 độ 27 phút 55 giây kinh độ đông, xa hơn mũi Đại Lãnh (109 độ 27 phút 06 giây), trở thành điểm cực đông của Tổ quốc - niềm khao khát khám phá mới với những người đam mê “xê dịch”.

Một góc B’lao - Bảo Lộc (Lâm Ðồng) hôm nay. Ảnh: Nguyễn Văn Thương

Một thuở B’lao

Đó là những năm từ 1964 đến 1967. Mỗi chiều về phố thị B’lao (Bảo Lộc, Lâm Ðồng) mang mang sương khói, người dân miền sơn cước này đã quen với hình ảnh một người trai trẻ ngậm điếu thuốc cháy dở trên môi, tay đút túi quần bước lững thững như vô định trên phố.

Ông Hồ Văn Lâm (thứ tư, từ trái qua) cùng bà con kiều bào đến thăm Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở tỉnh Udon Thani.

Hướng về nguồn cội

Luôn hướng về quê hương, đất nước, đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, nhiều năm trở lại đây, ông Hồ Văn Lâm sống ở tỉnh Udon Thani (Thái-lan) đã không ngừng phấn đấu, tích cực tham gia hoạt động của cộng đồng, trở thành một kiều bào gương mẫu, một doanh nhân thành đạt…

Mỗi khi có dịp, ông Vũ Văn Cảnh lại lên thắp hương cho đồng đội tại Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên (Hà Giang).

Lan tỏa nghị lực và tinh thần người lính

Trải qua muôn vàn gian khổ trong chiến đấu, nhiều thương binh trở về cuộc sống đời thường với những vết thương còn đau nhức. Song với phẩm chất cao quý của Bộ đội Cụ Hồ, những người lính ấy đã khắc phục khó khăn, sống tiếp phần đời sáng đẹp, làm chỗ dựa cho con cháu, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn hơn.

Những cánh ruộng bậc thang tạo nên những cung bậc mềm mại cho cảnh sắc. Ảnh: ĐỖ MỸ LY

Trở lại Pù Luông

Pù Luông đây ư?

Tôi chẳng còn nhận ra những nét thân quen nào nữa. Ngày trước đến các bản phải len chân trên những lối mòn với cây cối rậm rạp, gặp khi mưa gió thì trơn lầy, không cẩn thận dễ sa xuống khe suối. Bây giờ đường trải nhựa, xe ô-tô chạy đến tận các bản, điện đã đến từng nhà, chỉ hai thứ ấy thôi đã mang lại sự thay đổi cho vùng đất này. Tôi ngẩn ngơ trước một Pù Luông mới, để mặc cho ký ức ùa về…

Trong 25 m2 nhỏ bé ấy, có tất cả những vật dụng cần thiết được chế tạo thân thiện với môi trường.

Hành trình sống "Không rác thải"!

Rác thải, đặc biệt là rác thải nhựa được nhận diện là thủ phạm gây nên những tổn thương sâu sắc đối với môi trường sống chung quanh ta. Ðang có những con người tiên phong từ bỏ sự tiện lợi của các loại bao bì nhựa, ni-lông để lựa chọn và theo đuổi cuộc sống không rác thải (Zero Waste). Cô chủ nhỏ của Go Eco HaNoi là một trong số đó.

Ngày một nhiều du khách muốn đến với làng cổ Phước Tích. Ảnh: NGUYỄN KHOA

Phước Tích trong giấc mơ trưa

Nắng chính ngọ chảy tràn xuống dòng Ô Lâu xanh ngắt, hong óng lên sắc nâu của mái ngói cổ cong cong theo năm tháng. Không tiếng gà gáy trưa, Phước Tích (huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế) như chìm vào cõi riêng. Bỏ quên câu hỏi: Đến bao giờ ngôi làng cổ thứ hai của Việt Nam được đánh thức để tạo nên điểm nhấn cho du lịch của đất Thần Kinh?

Họa sĩ Tô Ngọc Thành đam mê, giàu cá tính sáng tạo.

Tươi nguyên miền ký ức

Dường như tuổi càng cao càng hối thúc họa sĩ Tô Ngọc Thành (ông tuổi Thìn - 1940) trở đi trở lại với vùng rẻo cao biên cương phía bắc của Tổ quốc yêu thương. Chẳng quản đường sá xa xôi, thời tiết khắc nghiệt cùng thiên tai rình rập, sau những chuyến đi, ông đem về Thủ đô Hà Nội trưng bày liên tiếp những cung bậc sắc mầu về phong cảnh và con người vùng đại ngàn trùng điệp, trong đó có những bức vẽ trẻ em rất ấn tượng.

Biểu diễn Fado trong Bảo tàng thành phố Faro.

Nghe Fado ở Faro

Giữa các phố nhỏ quanh co thơm mùi bánh Nata rắc bột quế và trầm ấm ánh đèn dầu vàng ở quận Alfama của Thủ đô Lisbon (Bồ Đào Nha), chữ Fado được viết bằng phấn trên bảng nhiều quán ăn như thực đơn chính: “Ở đây có Fado”, “Fado bắt đầu lúc 20 giờ”. Âm nhạc Fado của người Bồ Đào Nha - di sản văn hóa nhân loại đang có một đời sống thuận tự nhiên đến cảm động.

Chợ phiên San Thàng mang đậm âm sắc của một phiên chợ vùng cao.

Hấp dẫn chợ phiên San Thàng

Nằm ngay đầu vào của thành phố Lai Châu, chợ phiên San Thàng là một phiên chợ vùng cao khá lý thú. Ở đó có đầy đủ, đa dạng các sắc mầu văn hóa của bà con đồng bào các dân tộc bản địa. Ðến chợ vừa có thể mua sắm, vừa có thể ăn, chơi; đồng thời có thể khám phá được cái riêng, độc đáo của vùng đất, con người Lai Châu.

Các bác sĩ phẫu thuật ghép gan cho người bệnh.

Thêm cơ hội sống cho người bệnh hiểm nghèo

Có mấy ai sẵn sàng hy sinh phần tốt đẹp nhất cho người khác, đặc biệt là cho đi một phần cơ thể của mình? Vậy mà, tại các bệnh viện (BV) lớn ở TP Hồ Chí Minh, rất nhiều những người lạ có, thân quen có… đã sẵn sàng hiến một phần cơ thể cho người bệnh (NB) đang trong cơn nguy kịch; hay hiến cả bản thân khi nằm xuống nhằm giúp người còn sống.