Nâng cao hiệu quả quản lý lễ hội từ việc số hóa

Số hóa dữ liệu lễ hội là xu hướng tất yếu trong công tác quản lý văn hóa trước yêu cầu của thời đại. Số hóa không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo quản, giữ gìn tư liệu mà còn góp phần khẳng định, nâng tầm giá trị văn hóa Việt, quảng bá du lịch. Thời gian qua, công tác số hóa lễ hội đã đạt được những kết quả tích cực tuy nhiên vẫn còn không ít khó khăn cần được tháo gỡ, giúp công tác quản lý phát huy hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để người dân dễ dàng tiếp cận thông tin, góp phần thúc đẩy công nghiệp văn hóa phát triển.
Độc đáo lễ Mở cửa kho lúa của dân tộc Rơ Măm.
Độc đáo lễ Mở cửa kho lúa của dân tộc Rơ Măm.

Cả nước hiện có 8.868 lễ hội, trong đó có 8.103 lễ hội truyền thống, 687 lễ hội văn hóa, 74 lễ hội ngành nghề, 4 lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài. Các lễ hội được tổ chức rải rác vào nhiều thời điểm trong năm nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là dịp đầu năm mới. Lễ hội từ lâu đã trở thành một sinh hoạt văn hóa quen thuộc với đông đảo người dân. Mỗi lễ hội, đặc biệt là lễ hội truyền thống chứa đựng những giá trị căn cốt về văn hóa và lịch sử, phản ánh rõ nét bản sắc văn hóa con người Việt Nam. Chính vì vậy nhiều năm qua việc giữ gìn, bảo vệ, tôn vinh, phát triển các giá trị văn hóa, bao gồm hoạt động lễ hội luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, ban hành những chính sách phù hợp.

Nắm bắt xu hướng ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động văn hóa, từ năm 2021 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 2139/QĐ-BVHTTDL phê duyệt Đề án Số hóa dữ liệu lễ hội tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025. Đề án thể hiện sinh động mục tiêu xây dựng phát triển văn hóa số, góp phần hình thành thế hệ công dân số cho tương lai, hướng tới hoàn thành các mục tiêu công nghiệp hóa văn hóa, đóng góp vào thành công của Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam tầm nhìn 2030 của Chính phủ. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng được nêu ra trong kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11/2021.

Có thể thấy đa phần các lễ hội ở nước ta hằng năm là lễ hội truyền thống, hình thành từ rất lâu trong lịch sử, có nguồn gốc từ đời sống lao động, sinh hoạt của người dân và theo thời gian có sự tiếp biến, có những yếu tố mới được bổ sung.

Nhân dân sáng tạo ra lễ hội, thực hành lễ hội, và mỗi lễ hội có nguyên tắc tổ chức riêng, mỗi địa phương có những cách thực hành khác nhau, gắn với các quy định cụ thể như hương ước, lệ làng. Giống như nhiều giá trị văn hóa khác, lễ hội được lưu truyền qua dân gian là chủ yếu. Khoảng trống về tư liệu lưu trữ liên quan đến lễ hội không đầy đủ là nguyên nhân khiến những năm vừa qua, dưới tác động của kinh tế thị trường, không ít lễ hội đã bị sai lạc, biến tướng. Xu hướng thương mại hóa, coi lễ hội như hàng hóa để kinh doanh, kiếm lợi nhuận đã khiến cho nhiều lễ hội mất đi “tính thiêng”, mất đi vẻ đẹp văn hóa vốn có. Thậm chí ở nhiều nơi, lễ hội đã trở thành không gian của những trò chơi phản cảm, nạn cờ bạc đỏ đen, các dịch vụ “chặt chém” du khách, tình trạng nói tục chửi bậy, xả rác bừa bãi,... gây bức xúc trong dư luận. Những bất cập này đã đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải quyết trong tổ chức, quản lý lễ hội. Ở một số địa phương, chính quyền còn lúng túng vì thiếu các căn cứ để thực hiện việc duy trì, bảo tồn lễ hội. Trước thực trạng này, việc chuẩn hóa các dữ liệu lễ hội bằng hoạt động số hóa là giải pháp cần thiết, cấp bách đối với công tác quản lý, góp phần củng cố các giá trị đẹp đẽ trong quá khứ tuyên truyền đến người dân nâng cao ý thức, trách nhiệm, từ đó tiếp nhận và sáng tạo các giá trị mới làm giàu thêm cho văn hóa lễ hội.

Một trong những khó khăn của công tác số hóa lễ hội là việc thống kê, tìm kiếm dữ liệu. Đây là công việc phức tạp, với khối lượng dữ liệu rất lớn, cần huy động sự tham gia của toàn xã hội: các nhà nghiên cứu, các chuyên gia và đặc biệt là người dân. Mặc dù số lượng lễ hội tại Việt Nam nhiều, loại hình đa dạng nhưng chưa từng có đề án nào ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý, khai thác dữ liệu. Trong giai đoạn một của đề án “Số hóa dữ liệu lễ hội tại Việt Nam” ngành văn hóa đã hoàn tất cơ bản các nội dung như: điều tra, thống kê các loại hình lễ hội tại Việt Nam, ưu tiên số hóa 100% dữ liệu lễ hội truyền thống, đầu tư trang thiết bị, xây dựng phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu và Cổng thông tin về lễ hội Việt Nam. Trong giai đoạn hai, đề án sẽ tập trung số hóa các loại hình lễ hội còn lại, chú trọng công tác đào tạo con người cũng như khả năng vận hành cơ sở dữ liệu. Như vậy, khi hoàn tất đề án “Số hóa dữ liệu lễ hội Việt Nam” công tác tổ chức, quản lý lễ hội sẽ trở nên khoa học, chuyên nghiệp hơn.

Đánh giá khách quan thời gian qua, các thông tin cung cấp từ Cổng thông tin lễ hội của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã góp phần không nhỏ vào việc thay đổi công tác quản lý, tổ chức lễ hội tại các địa phương, nâng cao ý thức của người dân. Nhiều lễ hội đã trang trọng, an toàn, tiết kiệm, văn minh hơn, vừa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa của cộng đồng vừa góp phần giáo dục truyền thống, lịch sử cho thế hệ trẻ. Hàng nghìn trang tư liệu, bài viết, hình ảnh, video giới thiệu lễ hội được chuẩn hóa, trở thành cơ sở dữ liệu để người dân tra cứu, tìm hiểu, khai thác nhanh chóng và hiệu quả. Những hoạt động phản cảm, kém văn minh trong lễ hội đã giảm. Cùng với “Bộ tiêu chí về môi trường văn hóa trong lễ hội truyền thống” được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành, nguồn dữ liệu được số hóa chắc chắn sẽ giúp cho công tác quản lý lễ hội ngày một chuẩn mực hơn.

Tuy nhiên, những thay đổi tích cực đó mới chỉ là ban đầu, còn ít, vẫn còn những điểm nghẽn cần được tháo gỡ để tiến tới việc chuẩn hóa dữ liệu đầy đủ và thuận tiện hơn cho việc tra cứu. Đầu tiên là nhận thức của các địa phương trong công tác số hóa chưa đồng đều. Nhiều nơi còn xem nhẹ công tác tìm kiếm tư liệu, sơ sài trong thông tin lễ hội. Lễ hội là di sản có lịch sử lâu đời và đang phải đối diện nguy cơ thất truyền dữ liệu. Nếu từng địa phương không chú trọng việc thu thập thông tin thì số hóa chỉ là hình thức mà thiếu đi những cơ sở tin cậy phục vụ công tác tổ chức, quản lý, phát huy giá trị đẹp đẽ của văn hóa mỗi vùng, miền. Bên cạnh đó công tác tuyên truyền, giới thiệu nguồn gốc, ý nghĩa, lịch sử văn hóa và các hoạt động văn hóa đặc trưng của lễ hội đến nhân dân và du khách còn hạn chế. Người dân chưa có nhiều thông tin về số hóa dữ liệu dẫn đến việc tiếp cận phần mềm số hóa còn ít, chưa thường xuyên. Các tính năng sử dụng cũng như mức độ thân thiện của phần mềm dữ liệu theo đánh giá của chuyên gia cần được cải thiện, mở rộng sự tương tác để nhân dân có thể đóng góp ý kiến, chia sẻ kinh nghiệm của mình từ góc độ người hưởng thụ và sáng tạo văn hóa.

Trong kỷ nguyên số, dữ liệu là một nguồn tài nguyên quý giá của quốc gia. Chú trọng công tác số hóa trong mọi lĩnh vực của đời sống, bao gồm cả văn hóa cho thấy Đảng và Nhà nước ta sớm nhận thức được tầm quan trọng của tài nguyên dữ liệu. Riêng đối với lĩnh vực văn hóa, nhận thức này một lần nữa cần được quán triệt từ nhà quản lý tới mỗi người dân. Thay đổi nhận thức là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp cho công tác số hóa dữ liệu văn hóa nói chung và số hóa dữ liệu lễ hội nói riêng được thực hiện thành công. Để việc số hóa phục vụ thiết thực, hiệu quả công tác quản lý, tổ chức lễ hội, vấn đề cốt yếu là giúp người dân tiếp cận được các dữ liệu, cập nhật kiến thức, hiểu đúng về lịch sử, ý nghĩa của từng lễ hội, từ đó thay đổi hành vi khi tham gia sinh hoạt lễ hội. Muốn như vậy, dữ liệu phải đầy đủ, chính xác, khoa học, được thẩm định kỹ càng bởi các chuyên gia uy tín. Cách bố cục, sắp xếp thông tin phải hài hòa, thân thiện, dễ hiểu, phần mềm với tính năng dễ sử dụng và tốc độ truy cập nhanh đáp ứng nhu cầu của người dân. Nói cách khác, muốn làm tốt công tác số hóa, việc đầu tư cho công nghệ, kỹ thuật, máy móc cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò đặc biệt quan trọng. Cần đầu tư nguồn kinh phí thỏa đáng cho công tác đào tạo chuyên gia để vận hành, xử lý, duy trì hệ thống dữ liệu, cũng như cần một chiến lược đồng bộ, bài bản thu hút các doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động giữ gìn, khai thác các giá trị của văn hóa. Nếu chúng ta biết thu hút các nguồn lực của toàn xã hội, công tác số hóa dữ liệu lễ hội sẽ đạt được những kết quả như mong đợi, góp phần không nhỏ vào phát triển công nghiệp văn hóa.

Trên thế giới và tại khu vực Đông Nam Á nhiều nước đã thực hiện thành công số hóa dữ liệu lễ hội. Hiệu quả của công tác này cho thấy vấn đề chuẩn hóa các dữ liệu lễ hội chính là cách thức hiệu quả để bảo tồn, phục hồi, phát triển văn hóa bền vững, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự hội nhập nhanh chóng của nền kinh tế-xã hội và văn hóa của các quốc gia. Tuy nhiên, dữ liệu chỉ có thể phát huy giá trị khi được chuyển hóa sống động trong sinh hoạt lễ hội của người dân. Do đó nhất thiết nguồn tài nguyên này phải được tiếp cận, khai thác bởi các chủ thể lễ hội. Tiếp cận để hiểu, bảo vệ, giữ gìn những nét đẹp văn hóa của lễ hội, và thông qua việc tham gia lễ hội, người dân có thể tiếp nhận, sáng tạo các giá trị mới, nâng tầm di sản văn hóa Việt Nam phù hợp với thời đại mới. Vì vậy, vấn đề tuyên truyền để người dân, nhất là thế hệ trẻ biết đến cũng như tiếp cận thường xuyên nguồn dữ liệu số hóa lễ hội cần được đặc biệt chú trọng, bởi họ chính là những chủ nhân tương lai giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội.

Có thể bạn quan tâm

Tập huấn công tác Đảng cho các chi bộ, đảng viên. (Ảnh: MINH HOÀN)

Ngăn chặn bệnh hình thức

Tháng 12 hằng năm, tất cả đảng viên đang công tác tại các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước đều phải xin ý kiến chi ủy nơi cư trú về việc thực hiện quy định của Bộ Chính trị về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú để phục vụ công tác đánh giá, bình xét cán bộ.

Diện mạo Thủ đô Hà Nội ngày càng khang trang, hiện đại. (Ảnh: QUANG THÁI)

Bài 3: Giữ vững “ý Đảng, lòng Dân”

Giữ vững “ý Đảng, lòng Dân” là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước, là cội nguồn sức mạnh, niềm tin chiến lược, điểm tựa tinh thần để dân tộc ta viết tiếp trang sử mới; đồng thời là “thành lũy” vững chắc, góp phần đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Sau 50 năm xây dựng và phát triển, hạ tầng Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng đồng bộ, hiện đại. (Ảnh: THẾ ĐẠI)

Nuôi ảo vọng “phục quốc” bằng chiêu trò “lật sử”

50 năm đã trôi qua kể từ chiến thắng lịch sử ngày 30/4/1975, nhưng những kẻ phản bội Tổ quốc vẫn ôm mộng xóa bỏ chế độ chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, nhằm thực hiện ảo vọng “phục quốc” ngông cuồng với những âm mưu, thủ đoạn vô cùng xảo trá, thâm độc.

Bàn giao nhà Đại đoàn kết cho gia đình hộ nghèo ở buôn Khăm, xã Suối Trai, tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh: MTTQ)

Thủ đoạn xuyên tạc nhân quyền Việt Nam dưới vỏ bọc “chứng cứ quốc tế”

Tại phiên họp lần thứ 60 Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (UNHRC) diễn ra vừa qua tại Geneva (Thụy Sĩ), một số tổ chức thiếu thiện chí như Human Rights Watch (HRW), Amnesty International (AI) đã đưa ra cáo buộc Việt Nam vi phạm nhân quyền dựa trên dữ liệu phiến diện, chủ quan, nhưng được tô vẽ thành “chứng cứ quốc tế”.

Giờ học của học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV. (Ảnh: DUY LINH)

Bản lĩnh chính trị và năng lực tư duy lý luận

Tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, các yếu tố toàn cầu hóa, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-công nghệ, đặc biệt là chuyển đổi số, đang đặt ra nhiều thách thức mới đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh chính trị quốc gia. 

Việt Nam được bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026-2028. (Ảnh: UN)

Việt Nam tiến bước vững chắc trên con đường phát triển

Những thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được trong thực tiễn đã minh chứng rõ ràng: Việt Nam đang tiến bước vững chắc trên con đường phát triển, vị thế, uy tín quốc gia ngày càng được củng cố, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp nhận hàng viện trợ của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tặng người dân Bắc Ninh. (Ảnh: Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai)

Đoàn kết, chung sức vượt qua thiên tai

Biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt, kéo theo những hiểm họa bão lũ, động đất, sóng thần,... đe dọa sự an toàn của các quốc gia. Với bờ biển dài hơn 3.200km, địa hình đa dạng từ đồng bằng đến miền núi, Việt Nam thường xuyên hứng chịu mưa bão, lũ lụt và sạt lở đất, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm hỏi và tặng quà các mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình chính sách tiêu biểu tỉnh Đồng Tháp. (Ảnh: TÍN HUY)

Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người

Việc Việt Nam tái đắc cử thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026-2028 là sự ghi nhận xứng đáng của cộng đồng quốc tế đối với những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người. Đó cũng là minh chứng rõ ràng, góp phần bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ngày 25/3/2025. (Ảnh: ĐĂNG KHOA)

Kiên quyết đấu tranh chống lãng phí tài sản công

Lãng phí nói chung, lãng phí tài sản công nói riêng gây thất thoát nguồn lực quốc gia, ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước cũng như của mỗi địa phương, đơn vị. Thời gian qua, Tổng Bí thư Tô Lâm thường xuyên nhấn mạnh công tác đấu tranh chống lãng phí, coi đây là cuộc chiến “chống giặc nội xâm” đầy cam go, phức tạp.

Ngày 16/6/2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với 100% đại biểu có mặt tán thành. (Ảnh: DUY LINH)

Giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng

Thế giới hôm nay đang chứng kiến những biến động sâu sắc, khó lường. Xung đột vũ trang, cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, khủng hoảng kinh tế-xã hội, biến đổi khí hậu, dịch bệnh toàn cầu… tạo nên những chấn động toàn diện, thử thách hệ giá trị, mô hình phát triển và hệ thống chính trị của nhiều quốc gia.

(Ảnh minh họa)

Phát huy mạnh mẽ “chủ quyền số” bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng

Trong kỷ nguyên số, không gian mạng trở thành mặt trận nóng bỏng của đấu tranh tư tưởng, nơi ranh giới giữa đúng-sai, thật-giả hết sức mong manh. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, tư tưởng chính trị là điều căn cốt nhất quyết định bản chất cách mạng của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Họp báo triển khai Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ 5, năm 2025. (Ảnh: HCMA)

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời đại số

Công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời đại số cần kiên định về mục tiêu, linh hoạt về phương thức, lập luận xác đáng, thuyết phục, thông điệp nhân văn. Cùng nhau tạo dựng niềm tin cộng đồng, xây dựng “hệ quy chiếu” chuẩn mực, tin cậy để xã hội nhận diện và miễn dịch trước mọi mưu đồ xuyên tạc, phá hoại.

Lễ hoa đăng kính mừng Phật đản tại chùa Pháp Hoa, Thành phố Hồ Chí Minh thu hút đông đảo Phật tử, người dân tham dự. (Ảnh BTC)

Bản báo cáo thiếu khách quan về tình hình nhân quyền tại Việt Nam

Ngày 12/8/2025, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố Báo cáo tình hình nhân quyền năm 2024 của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Giống như báo cáo thường niên các năm trước, tài liệu này tiếp tục đưa ra những nhận định tiêu cực, phản ánh không đúng về tự do ngôn luận, báo chí, internet và tôn giáo ở Việt Nam.