Kinh tế tư nhân: “cú huých” phát triển kinh tế biển

Biển, đảo Việt Nam không chỉ là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc mà còn giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, quốc phòng và an ninh. Với vị thế án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không quốc tế huyết mạch, Biển Đông được coi là một trong những trục giao thương hàng hải trọng yếu của thế giới. Hệ thống cảng biển hiện đại cùng mạng lưới giao thông đa phương thức kết nối ven biển với nội địa đã tạo nên một hành lang kinh tế động lực, thúc đẩy giao thương và hội nhập quốc tế.
Toàn cảnh Hội thảo khoa học “Kinh tế biển xanh tạo động lực phát triển bền vững” do Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp Trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, tổ chức năm 2024. (Ảnh BTC)
Toàn cảnh Hội thảo khoa học “Kinh tế biển xanh tạo động lực phát triển bền vững” do Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp Trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, tổ chức năm 2024. (Ảnh BTC)

Bên cạnh tiềm năng kinh tế biển phong phú với nguồn tài nguyên dầu khí, hải sản và du lịch, vùng biển nước ta còn có ý nghĩa sống còn về mặt quốc phòng. Các đảo và quần đảo như những “tiền đồn chiến lược”, cùng với đất liền tạo thành thế trận phòng thủ liên hoàn, bảo vệ chủ quyền quốc gia từ hướng biển.

Động lực then chốt trong khai thác kinh tế biển

Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò là một trong những động lực quan trọng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết việc làm và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế biển - một trong những trụ cột chiến lược của nền kinh tế đất nước, khu vực kinh tế tư nhân đang dần thể hiện sức bật mạnh mẽ, từng bước vươn lên trở thành lực lượng tiên phong trong khai thác hiệu quả tiềm năng và lợi thế biển đảo của Tổ quốc.

Từ một thành phần kinh tế “bổ sung”, khu vực này đã vươn lên, trở thành trụ cột quan trọng bên cạnh khu vực kinh tế nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội.

Trong lĩnh vực kinh tế biển, kinh tế tư nhân thể hiện vai trò nổi bật qua những con số ấn tượng: Chiếm tới 65% sản lượng đánh bắt và 80% sản lượng nuôi trồng thủy sản; sở hữu 70% số cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch ven biển; tham gia 45% hoạt động logistics cảng biển và nhất là tiên phong trong các dự án năng lượng tái tạo, như điện gió ngoài khơi - một lĩnh vực đang mở ra không gian phát triển mới cho kinh tế biển Việt Nam…

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Lời căn dặn đó không chỉ là định hướng chiến lược mà còn là lời hiệu triệu hành động cho các thế hệ sau này.

Trong Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, Đảng ta xác định rõ: “Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài… tham gia phát triển kinh tế biển”. Đây là định hướng có tính chất mở đường, tạo hành lang pháp lý và tư tưởng để kinh tế tư nhân mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực biển.

Tiếp tục khẳng định tư duy đổi mới và tầm nhìn chiến lược, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Phát triển mạnh kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Đồng thời, định hướng xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển được đặc biệt nhấn mạnh, trong đó kinh tế biển và lực lượng doanh nghiệp tư nhân được xem là nhân tố không thể thiếu.

Gần đây nhất, ngày 4/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra và đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới.

Việc đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động cần có những giải pháp tổng thể, toàn diện, đột phá để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân, củng cố niềm tin, tạo khí thế và xung lực mới cho phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là cần thiết và cấp bách. Trong đó, xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động,…

Dù vậy, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Trong đó, lĩnh vực biển cũng đang đối mặt không ít thách thức cần sớm được tháo gỡ.

Một thực tế đáng chú ý là có tới 85% số doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động trong lĩnh vực biển có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, dẫn đến hạn chế về năng lực tài chính và khả năng đầu tư dài hạn. Tỷ lệ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chỉ đạt khoảng 15%, cho thấy tốc độ đổi mới công nghệ còn chậm. Việc tiếp cận các nguồn vốn dài hạn vẫn là điểm nghẽn lớn, nhất là đối với các dự án hạ tầng biển quy mô lớn. Bên cạnh đó, thiếu hụt nhân lực kỹ thuật cao và sự chồng chéo trong hệ thống pháp lý liên quan đến khai thác tài nguyên biển đang ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động cũng như khả năng cạnh tranh của khu vực này.

Thực tiễn đã cho thấy nhiều mô hình kinh tế tư nhân thành công trong đầu tư phát triển kinh tế biển. Những tên tuổi kinh tế tư nhân với chuỗi giá trị khép kín từ nuôi trồng đến xuất khẩu hay với các dự án đầu tư cảng biển và đóng tàu hiện đại là minh chứng rõ nét. Điểm chung của các doanh nghiệp này là có chiến lược phát triển dài hạn, đầu tư bài bản, ứng dụng công nghệ và chủ động hội nhập quốc tế. Chính những yếu tố này đã giúp họ không chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn góp phần quan trọng vào phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam.

Định hướng và điều tiết phát triển

Trong tiến trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã xây dựng hệ thống pháp lý, chính sách và cơ chế quản lý nhằm thúc đẩy kinh tế biển đi đúng hướng. Khung pháp lý ngày càng hoàn thiện với các văn bản như: Luật Biển Việt Nam (2012), Luật Thủy sản (2017, sửa đổi 2023), Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo (2015), cùng Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là nền tảng pháp lý định hướng toàn diện và hiện đại cho quản lý, khai thác, bảo vệ biển đảo.

Cơ chế quản lý biển cũng được thiết lập đa cấp, đa ngành. Trung ương cùng địa phương ven biển phối hợp thực hiện chức năng quản lý tổng hợp và chuyên ngành, từng bước nâng cao hiệu quả thực thi chính sách biển. Nhà nước ban hành chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế biển như: Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế nhập khẩu công nghệ cao, hỗ trợ lãi suất vay vốn, thành lập quỹ khoa học-công nghệ biển… tạo điều kiện thu hút đầu tư vào các lĩnh vực trọng điểm như thủy sản, năng lượng tái tạo, du lịch biển…

Đảng ta chủ trương: “Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển. Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tạo thành các trung tâm kinh tế biển mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có giá trị gia tăng cao như dịch vụ xuất, nhập khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dịch vụ dầu khí, vận tải… Phát triển kinh tế đảo phù hợp với vị trí, tiềm năng và lợi thế của từng đảo”.

Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát huy lợi thế kết hợp bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam không chỉ thể hiện sự phát triển năng lực tư duy lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, mà còn là ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam trước bối cảnh quốc tế phức tạp như hiện nay.

Phát triển kinh tế biển bền vững

Kinh tế biển Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng đối mặt không ít thách thức mang tính hệ thống, đòi hỏi phải có cách tiếp cận tổng thể, chiến lược và bền vững hơn trong điều hành, đầu tư và quản lý.

Việc khai thác quá mức khiến nguồn lợi thủy sản ven bờ suy giảm 30-40% trong vòng 10 năm. Ô nhiễm môi trường biển diễn biến khá nghiêm trọng, trong đó 70% số rác thải nhựa có nguồn gốc từ đất liền. Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cũng đe dọa nghiêm trọng đến khoảng 30% diện tích đất ven biển, nhất là tại các đồng bằng trũng thấp. Hệ thống thể chế quản lý biển còn phân tán và thiếu liên kết. Sự chồng chéo giữa các bộ, ngành khiến việc phân công trách nhiệm thiếu rõ ràng, hiệu quả điều phối bị suy giảm. Cơ sở dữ liệu biển chưa đồng bộ, thiếu chia sẻ thông tin, làm giảm hiệu quả trong hoạch định và thực thi chính sách biển.

Trước những vấn đề này, Việt Nam cần triển khai các giải pháp mang tính chiến lược. Một mặt, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế: Tập trung nghiên cứu rà soát, sửa đổi Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; sớm ban hành Luật Kinh tế biển và thành lập Ủy ban Quốc gia về Kinh tế biển sẽ là bước đột phá về mặt pháp lý và điều phối; xây dựng, triển khai bộ tiêu chí chính sách phát triển quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Đồng thời, cần cải cách hành chính mạnh mẽ, cắt giảm ít nhất 30% số thủ tục cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực biển, và mở rộng các gói tín dụng ưu đãi quy mô lớn để hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ.

Mặt khác, khoa học-công nghệ phải trở thành trụ cột thúc đẩy kinh tế biển. Ứng dụng công nghệ 4.0 trong giám sát tàu cá, cảnh báo ô nhiễm, chuyển giao công nghệ nuôi biển tiên tiến từ các quốc gia như Na Uy, Israel là hướng đi cần được ưu tiên. Việc thành lập các trung tâm đào tạo nhân lực biển tại các thành phố cảng như Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu sẽ tạo nền tảng nhân lực vững chắc cho phát triển dài hạn.

Về môi trường, Việt Nam cần đẩy mạnh thực hiện Quy hoạch Không gian biển quốc gia, dành ít nhất 30% diện tích biển cho mục tiêu bảo tồn hệ sinh thái. Mô hình kinh tế tuần hoàn cần được hiện thực hóa bằng việc xây dựng các khu công nghiệp sinh thái không phát thải, đồng thời triển khai chương trình thu gom rác thải nhựa đại dương với ngân sách riêng nhằm kiểm soát ô nhiễm biển.

Bên cạnh đó, cơ chế hợp tác đa phương đóng vai trò quan trọng. Việt Nam cần mở rộng các mô hình hợp tác công-tư trong đầu tư hạ tầng cảng biển, du lịch sinh thái; thúc đẩy liên kết vùng theo trục bắc-trung-nam để phát triển các chuỗi giá trị kinh tế biển đặc thù; đồng thời tích cực tham gia vào các sáng kiến khu vực như ASEAN về kinh tế biển xanh.

Với cách tiếp cận đồng bộ, đa chiều và dựa trên nền tảng thể chế chính trị vững chắc, Việt Nam hoàn toàn có thể biến những thách thức hiện nay thành động lực phát triển, từng bước đưa kinh tế biển trở thành trụ cột tăng trưởng bền vững, góp phần bảo đảm sinh kế, bảo vệ môi trường và giữ vững chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Kinh tế tư nhân giữ vai trò then chốt trong khai thác tiềm năng kinh tế biển, nhưng sự phát triển hiệu quả và bền vững của lĩnh vực này phụ thuộc vào định hướng chiến lược từ thể chế chính trị Việt Nam. Khi chính sách đồng bộ, doanh nghiệp chủ động đổi mới và môi trường biển được bảo vệ hiệu quả, kinh tế biển hoàn toàn có thể trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần khẳng định vị thế quốc gia trên bản đồ kinh tế và địa chính trị quốc tế.

Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả đó, hơn lúc nào hết phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn vùng biển nói riêng và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc nói chung, xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nước ta thật sự trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển.

Có thể bạn quan tâm

Tập huấn công tác Đảng cho các chi bộ, đảng viên. (Ảnh: MINH HOÀN)

Ngăn chặn bệnh hình thức

Tháng 12 hằng năm, tất cả đảng viên đang công tác tại các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước đều phải xin ý kiến chi ủy nơi cư trú về việc thực hiện quy định của Bộ Chính trị về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú để phục vụ công tác đánh giá, bình xét cán bộ.

Diện mạo Thủ đô Hà Nội ngày càng khang trang, hiện đại. (Ảnh: QUANG THÁI)

Bài 3: Giữ vững “ý Đảng, lòng Dân”

Giữ vững “ý Đảng, lòng Dân” là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước, là cội nguồn sức mạnh, niềm tin chiến lược, điểm tựa tinh thần để dân tộc ta viết tiếp trang sử mới; đồng thời là “thành lũy” vững chắc, góp phần đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Sau 50 năm xây dựng và phát triển, hạ tầng Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng đồng bộ, hiện đại. (Ảnh: THẾ ĐẠI)

Nuôi ảo vọng “phục quốc” bằng chiêu trò “lật sử”

50 năm đã trôi qua kể từ chiến thắng lịch sử ngày 30/4/1975, nhưng những kẻ phản bội Tổ quốc vẫn ôm mộng xóa bỏ chế độ chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, nhằm thực hiện ảo vọng “phục quốc” ngông cuồng với những âm mưu, thủ đoạn vô cùng xảo trá, thâm độc.

Bàn giao nhà Đại đoàn kết cho gia đình hộ nghèo ở buôn Khăm, xã Suối Trai, tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh: MTTQ)

Thủ đoạn xuyên tạc nhân quyền Việt Nam dưới vỏ bọc “chứng cứ quốc tế”

Tại phiên họp lần thứ 60 Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (UNHRC) diễn ra vừa qua tại Geneva (Thụy Sĩ), một số tổ chức thiếu thiện chí như Human Rights Watch (HRW), Amnesty International (AI) đã đưa ra cáo buộc Việt Nam vi phạm nhân quyền dựa trên dữ liệu phiến diện, chủ quan, nhưng được tô vẽ thành “chứng cứ quốc tế”.

Giờ học của học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV. (Ảnh: DUY LINH)

Bản lĩnh chính trị và năng lực tư duy lý luận

Tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, các yếu tố toàn cầu hóa, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-công nghệ, đặc biệt là chuyển đổi số, đang đặt ra nhiều thách thức mới đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh chính trị quốc gia. 

Việt Nam được bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026-2028. (Ảnh: UN)

Việt Nam tiến bước vững chắc trên con đường phát triển

Những thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được trong thực tiễn đã minh chứng rõ ràng: Việt Nam đang tiến bước vững chắc trên con đường phát triển, vị thế, uy tín quốc gia ngày càng được củng cố, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp nhận hàng viện trợ của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tặng người dân Bắc Ninh. (Ảnh: Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai)

Đoàn kết, chung sức vượt qua thiên tai

Biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt, kéo theo những hiểm họa bão lũ, động đất, sóng thần,... đe dọa sự an toàn của các quốc gia. Với bờ biển dài hơn 3.200km, địa hình đa dạng từ đồng bằng đến miền núi, Việt Nam thường xuyên hứng chịu mưa bão, lũ lụt và sạt lở đất, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm hỏi và tặng quà các mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình chính sách tiêu biểu tỉnh Đồng Tháp. (Ảnh: TÍN HUY)

Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người

Việc Việt Nam tái đắc cử thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026-2028 là sự ghi nhận xứng đáng của cộng đồng quốc tế đối với những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người. Đó cũng là minh chứng rõ ràng, góp phần bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ngày 25/3/2025. (Ảnh: ĐĂNG KHOA)

Kiên quyết đấu tranh chống lãng phí tài sản công

Lãng phí nói chung, lãng phí tài sản công nói riêng gây thất thoát nguồn lực quốc gia, ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước cũng như của mỗi địa phương, đơn vị. Thời gian qua, Tổng Bí thư Tô Lâm thường xuyên nhấn mạnh công tác đấu tranh chống lãng phí, coi đây là cuộc chiến “chống giặc nội xâm” đầy cam go, phức tạp.

Ngày 16/6/2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với 100% đại biểu có mặt tán thành. (Ảnh: DUY LINH)

Giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng

Thế giới hôm nay đang chứng kiến những biến động sâu sắc, khó lường. Xung đột vũ trang, cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, khủng hoảng kinh tế-xã hội, biến đổi khí hậu, dịch bệnh toàn cầu… tạo nên những chấn động toàn diện, thử thách hệ giá trị, mô hình phát triển và hệ thống chính trị của nhiều quốc gia.

(Ảnh minh họa)

Phát huy mạnh mẽ “chủ quyền số” bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng

Trong kỷ nguyên số, không gian mạng trở thành mặt trận nóng bỏng của đấu tranh tư tưởng, nơi ranh giới giữa đúng-sai, thật-giả hết sức mong manh. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, tư tưởng chính trị là điều căn cốt nhất quyết định bản chất cách mạng của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Họp báo triển khai Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ 5, năm 2025. (Ảnh: HCMA)

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời đại số

Công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời đại số cần kiên định về mục tiêu, linh hoạt về phương thức, lập luận xác đáng, thuyết phục, thông điệp nhân văn. Cùng nhau tạo dựng niềm tin cộng đồng, xây dựng “hệ quy chiếu” chuẩn mực, tin cậy để xã hội nhận diện và miễn dịch trước mọi mưu đồ xuyên tạc, phá hoại.

Lễ hoa đăng kính mừng Phật đản tại chùa Pháp Hoa, Thành phố Hồ Chí Minh thu hút đông đảo Phật tử, người dân tham dự. (Ảnh BTC)

Bản báo cáo thiếu khách quan về tình hình nhân quyền tại Việt Nam

Ngày 12/8/2025, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố Báo cáo tình hình nhân quyền năm 2024 của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Giống như báo cáo thường niên các năm trước, tài liệu này tiếp tục đưa ra những nhận định tiêu cực, phản ánh không đúng về tự do ngôn luận, báo chí, internet và tôn giáo ở Việt Nam.