Hồi ức cựu binh Tây Tiến

Chiều Đà Lạt, trời đổ trận mưa lớn nước ào ào như trút. Cơn mưa chiều phố núi góp phần làm cho những tâm sự gợi liên tưởng hơn. Một già, một trẻ lần chung dòng hồi ức của lão ông tuổi 93 về những năm tháng hơn bảy mươi năm về trước. Khi đó, mới ngoài tuổi hai mươi, ông là chiến binh của đoàn quân Tây Tiến oai hùng. Người mà tôi đang kể là đại tá Nguyễn Hữu Đàm, nguyên Trưởng Hệ Quan hệ quốc tế (Học viện Lục quân Đà Lạt)…
Đại tá Nguyễn Hữu Đàm, năm 1972 tại chiến trường Trị Thiên.
Đại tá Nguyễn Hữu Đàm, năm 1972 tại chiến trường Trị Thiên.

Những câu thơ của thi sĩ, chiến sĩ Quang Dũng bỗng bất chợt ngân lên khi tôi ngắm gương mặt hiền từ nhưng không giấu vẻ kiêu bạc một thời tuổi trẻ: "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi…". Nghe tôi đọc những câu thơ tài hoa trong bài thơ Tây Tiến, ông Đàm lúi húi lục từ trong chiếc tủ kính gia đình, lấy ra phiên bản bức thư của Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp gửi đoàn vũ trang Tây Tiến, đề ngày 1/2/1947. Ông nói rằng, bao năm rồi đã cất giữ bức thư của Đại tướng như một kỷ vật trên hành trình làm người lính chiến. Nói rồi ông lặng người đi chốc lát, có lẽ cảm xúc của lão ông đang hòa theo dòng hồi ức những ngày tháng gian lao mà anh dũng từ xa xôi hiện về…

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp; quê hương lại oằn mình gánh chịu thương đau. Ở tuổi 16, khi Nguyễn Hữu Đàm đang bị giặc Nhật bắt đi vác đá xây sân bay thì Cách mạng Tháng Tám thắng lợi. Đất nước vừa thoát khỏi ách nô lệ, lại bước sang chương mới đầy bi tráng khi kẻ thù đe dọa nền độc lập. Quân đội ta tăng cường vũ trang chiến đấu. Đại đoàn 304 đã thành lập giữa quê hương của người thanh niên đang tràn đầy nhiệt huyết.

"Ngắm hình ảnh người chiến sĩ Vệ quốc đoàn thật cao đẹp, lung linh", ông nói. Lúc đó, ông là một trong những người hiếm hoi ở quê học xong cấp hai; vừa chuyển lên cấp ba thì tạm dừng bút nghiên. Ông nhập ngũ tháng 7/1950, là quân của Đại đoàn 304. 300 người lớp tân binh khóa chín của Nguyễn Hữu Đàm sau ba tháng huấn luyện đã gia nhập vào một trong những đoàn quân Tây Tiến, thành lập tại huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Lịch sử ghi, đoàn Tây Tiến thành lập ngày 16/5/1947, ba năm sau đó, tân binh Nguyễn Hữu Đàm có mặt trong "đoàn binh không mọc tóc" và hành quân lên miền tây, vượt biên giới qua nước bạn Lào.

"Người chỉ huy của chúng tôi là đại tá Bằng Giang; anh Thức là đại đội trưởng. Tôi là chiến sĩ liên lạc thuộc trung đội thông tin do anh Đức làm trung đội trưởng". Ông nhớ lại: "Đêm hội quân bên dòng sông Chu, đại tá Bằng Giang cầm đuốc và kiếm đứng trước hàng quân, hình ảnh đẹp một cách kiêu hùng. Giọng truyền lệnh vang rền núi rừng của vị chỉ huy làm tinh thần những người lính trẻ chúng tôi hết sức phấn chấn, dù biết rằng phía trước là hành trình vô cùng gian lao". Dù lý tưởng mỗi thời mỗi khác, nhưng nghe lời ông Đàm kể, tôi liên tưởng câu thơ của tráng sĩ Kinh Kha bên bờ sông Dịch trước lúc vượt sông hành thích Tần Thủy Hoàng: "Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn/ Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn" (Gió đìu hiu sông Dịch lạnh lùng ghê/ Tráng sĩ một đi không trở về…".

Lão ông Nguyễn Hữu Đàm cười hiền: "Chuyện của tôi thì chẳng có gì nhiều, nhưng chuyện về đồng đội Tây Tiến thì không thể nào quên!". Ông Đàm nói và giúp tôi lần giở những trang ký ức. Theo lời ông, ngày đầu lập đoàn trang bị rất thô sơ. Mỗi chiến sĩ được phát hai bộ quân phục, hai người một chiếc màn và một cái chăn mỏng. Cả đoàn có bốn khẩu cối 82 thuộc đại đội hỏa lực còn bộ binh chỉ có giáo mác, súng trường. Tiểu đội ông Đàm có 12 người thì một nửa được trang bị súng, một nửa không. Ăn Tết năm 1950 ở huyện Cẩm Thủy, đại đội chỉ có một chiếc nồi quân dụng, chiến sĩ vào rừng chặt bương về đựng canh. Qua Tết, đơn vị hành quân, vượt Tây Bắc, áp sát Sầm Nưa. Tháng 3/1951, chiến sĩ liên lạc Nguyễn Hữu Đàm có mặt trong đoàn quân qua nước bạn Lào…

★★★

Đường hành quân của bộ đội Tây Tiến là núi cao, vực thẳm, là qua những bản làng heo hút. Sơn cước đẹp mê mẩn mà cũng vắt kiệt sức lực những người lính trẻ. Đúng như những câu thơ lãng đãng của thi sĩ Quang Dũng: "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/ Mường Lát hoa về trong đêm hơi/ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời". Nguyễn Hữu Đàm nhớ lại những cuộc dân vận, binh vận, những đêm lửa trại. Hòa nhịp xoang, lính trẻ xốn xang trước vẻ mỹ miều của những cô gái Thái trong điệu xòe lả lơi bên bếp lửa bập bùng. Những câu thơ trác tuyệt của Quang Dũng chắc cũng viết lên từ cảm xúc ấy: "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ Kìa em xiêm áo tự bao giờ/ Khèn lên man điệu nàng e ấp/ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"…

Nguyễn Hữu Đàm cùng đồng đội vượt sông Chu, sông Mã, ngược lên miền núi cao phía tây. Sức trai tráng ngày đầu là thế mà cứ thấm dần rừng thiêng nước độc. Những trận sốt rét đã quật ngã biết bao chiến binh, rồi ghẻ lở hành hạ. Các loại bọ rận len lỏi vào tóc tai, râu ria. Chúng lổm ngổm trong quần áo, bám vào kẽ tay, kẽ chân. Ông Đàm kể, những đêm dừng nghỉ giữa rừng, cả đoàn quân ngồi quanh bếp lửa bắt chấy rận, tiếng tanh tách giết rận rộn lên. Rồi nhiều quá, bộ đội phải bắc chảo nước sôi luộc quần áo hòng làm rận chết. Không chịu nổi ngứa ngáy, những cái đầu lính cứ thế phải cạo trọc dần. Những gương mặt mỗi ngày thêm gầy gò, yếu ớt vì sốt rét, ghẻ lở và đói. Cái đói thì rất rõ, đoàn quân Tây Tiến lên đường mà không có bộ phận hậu cần, ai có gì mang nấy từ nhà, mà miền bắc thì mới trải qua nạn đói khủng khiếp. Trong ruột tượng, ống nứa của người chiến sĩ có thể là một ít gạo hẩm, vài cân khoai lang khô, chỉ ít ngày là lương thực cạn kiệt. Trên đường hành quân, bộ đội vừa chiến đấu, vừa phải tìm cái ăn. Miếng ăn của chiến binh hầu hết dựa vào đồng bào. Nhiều bữa đói, ít bữa no, thời đó bản làng thưa thớt và người dân nghèo khổ. Đoàn quân đầu trọc, mầu da xanh xao lại trở thành thi ảnh đầy gợi cảm trong thơ Quang Dũng: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm". Còn đây là giấc mơ của người lính với cái đói triền miên: "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"…

Ông Đàm trầm ngâm: "Quân Pháp không giết các chiến sĩ nhiều bằng bệnh sốt rét. Có anh chiều còn tếu táo, đêm đã lạnh cứng rồi. Ngày nào, dường như cũng có chiến sĩ hy sinh". Đồng đội ra đi nhiều đến nỗi mà một tiểu đoàn phó đã nghẹn ngào viết bài hát "Tiếng cồng quân y" để khóc tiễn đưa. Chuyện là, mỗi khi có người lính nào chết thì quân y đánh một tiếng cồng báo hiệu. Lời bài hát có đoạn: "Cồng âm i âm i/ Từng đợt tiếng lầm lì/ Tới tai người chiến sĩ ốm đau xa nhà… Chàng chưa muốn chết, nước non chưa yên…". Bộ đội chết nhiều vì sốt rét, chiếu của đồng bào góp cho không đủ, đồng đội phải chẻ tre, bó cáng để chôn. Chiếc cáng tre chính là chiếc "áo bào thay chiếu" trên những nẻo đường "rải rác biên cương mồ viễn xứ"!...

Ông Đàm hồi ức, sau nhiều ngày hành quân, đội võ trang của ông đến biên giới Việt-Lào. Vượt đèo Pa Hang, cùng hội quân tiến về Sầm Nưa. Mặc dù đội võ trang Tây Tiến không đông quân lắm, nhưng quân Pháp đồn trú ở đây lại nghe đồn là đối phương đông rợp cả rừng, đặc biệt có nhiều hỏa lực mạnh. Ông cười rồi kể tiếp: "Thật ra đó là những ống bương, ống nứa mà các chiến sĩ thiếu thốn quân trang phải mang theo để đựng gạo, đựng muối và nước uống. Trinh sát giặc nhìn từ xa cứ tưởng là súng, pháo hạng nặng. Quân Pháp mất hết nhuệ khí, quan lính hè nhau chạy thục mạng, ta giải phóng thị xã Sầm Nưa, thủ phủ tỉnh Hủa Phăn không tốn mấy viên đạn". Trong chiến dịch Sầm Nưa, tổ trưởng Nguyễn Hữu Đàm đã lập chiến công khi thu được một tấn dây điện thoại của giặc; ông đã chỉ huy đồng đội dùng bè luồng vượt sông Chu đưa chiến lợi phẩm quý giá đó về hậu cứ thành công…

★★★

Tiếp nối khúc quân hành Tây Tiến, đôi bàn chân của chiến binh Nguyễn Hữu Đàm đã in dấu trên những dặm dài chiến trường ác liệt. Bao mùa chinh chiến đi qua, chiều mưa này ngồi tâm sự cùng tôi, ông ít nói về mình, cũng ít kể về những chiến công trong quá khứ. Lão ông tuổi ngoại cửu tuần theo dòng hồi ức mà ngậm ngùi nhớ về sự hy sinh của đồng đội ngày xưa: "Chiến tranh thật khốc liệt! Từ Tây Tiến, Hòa Bình, Điện Biên Phủ đến chiến trường Trị Thiên, tôi đã phải chứng kiến sự hy sinh của biết bao đồng đội thân yêu. Cái giá của chiến thắng thật đắt vô cùng. Trong Chiến dịch Mậu Thân năm 1968, tiểu đoàn của tôi 800 người vào thành phố Huế, lúc rút ra chỉ còn lại vẻn vẹn 37 anh em. Chúng tôi không thể và cũng không đủ người để mang thi hài đồng đội trở về...".

Có thể bạn quan tâm

Minh họa VĂN HỌC

Xứ nước lên

Phải rời bỏ cái chốn này khi nước lên. Hồi đó, cứ nghĩ tới những cuộc đi là Khê buồn muốn khóc.

Minh họa: VĂN HỌC

Tro bụi ngược chiều

Nắng trưa vàng như chảo mật ong tưới xuống. Nghĩa trang lớn nằm ở ngoại ô, những ngôi mộ nơi góc khuất bị cỏ dại bọc kín, bia đá lấm bụi, từng vệt bẩn kéo dài chảy xuống theo vệt nước mưa, có lẽ do cơn mưa chiều qua.

Minh họa: Nguyễn Minh

Trăng sau bão

Về đến Hoàng Phủ lúc giữa chiều, gió se sắt làm những tán cây nhuốm bùn kêu lào rào.

Minh họa của VĂN HỌC

Người đâu gặp gỡ làm chi...

Phương ngồi bên cửa sổ, lặng lẽ nhìn ánh nắng chiều dần tắt. Từ căn nhà nhỏ của cô có thể nhìn ra cánh đồng lúa chín vàng. Mùi thơm của đất trời, mùi lúa tràn về khoảng không gian tĩnh lặng, thanh bình.

Minh họa: Trần Xuân Bình

Trên những dấu thu

Nhân đẩy cánh cổng sắt bước vào khoảng sân nhỏ. Ùa vào lòng anh là hương mộc ngọt ngào làm anh nhớ lại những năm tháng êm đềm.

Minh họa: Trần Xuân Bình

Cơm đục

Những hạt cát mà anh đã lén trộn trong chén cơm năm đó, chắc bà già mù không nhớ đâu. Nội nói khi người hóa khói, nhẹ tênh một đời, không còn gì để nhớ thương hay oán giận. Cứ vậy mà tan.

Minh họa của Văn Học

Màu hoa tím trong mưa

Thành phố đã mưa suốt hai tuần không dứt. Những sợi tơ mảnh nối nhau tuôn xuống từ trời rồi hợp thành dòng chảy miên man qua từng con ngõ nhỏ. Hơi ẩm bám vào tường làm dãy nhà tập thể tróc vữa già thêm mấy chục năm. Âm thanh rả rích len vào giấc ngủ nghe buồn như tiếng khóc.

Bìa tập thơ "Hoa nắng".

Hương sắc và ánh sáng từ "Hoa nắng"

Vào dịp Kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, 80 năm Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, NXB Hội Nhà văn chọn in tuyển tập thơ của nhà báo, nhà thơ Hồng Vinh, khẳng định sự đóng góp của ông trên lĩnh vực báo chí và văn học, tôn vinh một nhà báo cách mạng có ảnh hưởng xã hội xuyên suốt hai thế kỷ.

Minh họa của NGUYỄN MINH

Bình minh mang màu ký ức

Bình minh nhuộm vàng lòng chảo, nhuộm cánh đồng lúa chín và những dãy núi xa. Cánh đồng Mường Thanh, nơi tôi chiến đấu, ở lại và sống trọn đời người. Đời người ngắn hay dài, dòng Nậm Rốm hiểu rõ.

Minh họa: Nguyễn Minh

Qua mùa nước cạn

Nắng sồng sộc phả lên mặt người. Nóng bỏng rát lên từng thớ da. Đất nung lên chân, xuyên qua gót nứt nẻ, đi một bước đã thấy bưng bức.

Minh họa: Nguyễn Minh

Lời biển

Biển đón tôi bằng tiếng sóng dịu êm. Biển mênh mông bình yên đã dưỡng nuôi làng chài, để tôi và số ít trai gái có thể đi xa hơn.

Minh họa: Nguyễn Minh

Nài ngựa

Bây giờ khi đã lớn khôn, xa ký ức quê hương một quãng dài cả về thời gian và khoảng cách, nhưng mỗi lần nhìn cỗ xe ngựa đậu trong viện bảo tàng hay những khu du lịch sinh thái miệt vườn, là lòng tôi lại dâng lên cảm giác thân thương, thắm thiết.

Minh họa: Chu Văn

Vì một lời hứa nhỏ

Chỉ thiếu nửa điểm nữa thôi là tôi đã đạt điểm tuyệt đối ở cả ba môn thi đại học. Nhưng điều đó không khiến tôi bất ngờ.

Minh họa: NGUYỄN MINH

Giờ đẹp

Sáng nay, thời tiết bình thường, trời không nắng, chẳng mưa, chỉ hơi ưng ửng vàng, gió thổi nhẹ. Nghe nói, mấy ngày tới sẽ có đợt áp thấp.

Minh họa: NGUYỄN MINH

Kho báu

Trong thung lũng khuất sâu, bị nuốt chửng bởi những đỉnh núi Đá Đen sừng sững, có một ngôi làng nhỏ mang tên Thanh Bình. Thế nhưng, mấy năm qua, những người dân nơi đây lại chưa bao giờ được hưởng trọn vẹn hai chữ ấy. Hạn hán kéo dài như một lời nguyền tàn độc bủa vây.

Minh họa: NGUYỄN MINH

Miền chân sóng xôn xao

Chiều nhẹ. Nắng mỏng như tờ giấy. Sóng ập òa bình yên. Bọn trẻ rộn rã nói cười. Tất cả im lặng khi anh dõng dạc hướng dẫn bài vẽ sóng. Anh bảo bọn trẻ tả sóng, nhưng phải theo cách nghĩ của mình. Thương im lặng.

Minh họa: Nguyễn Minh

Những cái cây trong thành phố

Nhi ngồi làm việc cạnh một ô cửa bằng kính chẳng bao giờ mở. Cái chốt cửa bằng sắt hoen gỉ nằm im trong bức tường đầy hơi máy lạnh.

Minh họa: NGUYỄN MINH

Phía trăng lên

Thức liên tục gắp thức ăn cho mẹ. Sự cố gắng của con trai cả khiến bà Mai thấy thương. Bà biết, con dâu chẳng ưa gì mình, còn Thức cố xóa nhòa khoảng cách mẹ chồng, nàng dâu.
Minh họa: DƯƠNG ĐÍNH

Mầm xanh ký ức

Xuồng vừa chạm bến thì tiếng đạn bất ngờ nổ rền như sấm xé tan màn đêm. Địch phục kích! Lửa lóe sáng giữa bóng tối, tiếng súng rát tai dội vang cả khúc sông. Nhóm người vội tản ra, người lao lên bờ, người len qua cầu khỉ, người lặn mình vào lùm cây tối sẫm.
Minh họa: Nguyễn Minh

Về may áo lụa

Trăng trải thành thảm vàng, bao phủ cả làng mạc, bãi dâu. Anh hòa mình vào ánh trăng với ngàn ngạt hương dâu, như sợ nay mai vùng Ngàn Hương sẽ bị cày xới.
Minh họa: Nguyễn Minh

Mùa hoa đã cũ

Góc phố có cây lan hoàng dương. Mùa xuân, hoa rủ xuống từng chùm rực rỡ.
Minh họa: THU HÀ

Mùa rưng rức đỏ

Khi ông về đến thành phố đã là giữa đêm. Gió tháng ba hấp lên da thịt ông cái nóng còn sót lại của ngày.
Minh họa: Thu Hà

Ngang một bến sông

Nước dâng lên rờn rợn. Gió xốn xang như nỗi niềm của con sông gác mặt mình trong năm tháng. Lão Mậu đưa thuyền vào sát bờ, tắt máy. 
Minh họa: THU HÀ

Mùa hoa nở muộn

Trời có ấm hơn. Những hạt mưa bụi lất phất bay, như chiếc sàng rây lớp bột mịn bám lên mái nhà, bờ hiên, khoảng sân và mọi thứ không được che chắn. Trên cành hoa hồng, hạt mưa đọng lại trên chiếc lá xanh nhỏ xíu, tụ thành giọt nước tròn đầy, trĩu nặng, uốn cong sợi gân lá rồi lặng lẽ rơi xuống lớp đất mềm ẩm bên dưới.
Lời ong bướm

Lời ong bướm

Chợ Hợp Thành một tháng bốn phiên. Sáng mai là phiên ngày hăm ba, còn một phiên ngày ba mươi nữa thôi là hết tháng giêng rồi.