Đọc sách “Sống đời của chợ”

Đọc sách “Sống đời của chợ”

“Sống đời của chợ” (NXB Hội Nhà văn và Tao Đàn) ra mắt đã nửa thập kỷ nhưng đến nay vẫn là công trình công phu cắt nghĩa bản chất chợ trong đời sống văn hóa Việt Nam. Hơn thế, những nảy sinh trong diễn biến đời sống chợ, những xây mới, cải tạo, thưa vắng, lãng phí hoặc ngăn nắp, vệ sinh hơn của chợ, cả những bối rối chợ cóc, chợ tạm… càng buộc chúng ta hiểu chợ một cách nghiêm túc, thấu đáo khi quản lý, tổ chức chợ trong đời sống hiện đại.

Đáng nói, “Sống đời của chợ” sẽ còn được phát triển trong sự mở rộng các vùng khảo cứu và dấu ấn nghiên cứu như mong muốn của tác giả. Vì thế, với tôi đây là tác phẩm thú vị để đọc lại, thiết thực với những người dân bình thường quan tâm đến chợ, đến văn hoá và với các nhà nghiên cứu, nhà quản lý…

Nguyễn Mạnh Tiến viết về chợ như một người trong cuộc.

Nguyễn Mạnh Tiến viết về chợ như một người trong cuộc.

Như bất kỳ một người Việt Nam nào, đều sống đời đi qua những chợ, đi bên cạnh chợ hay đi trong những chợ. Chợ là kinh nghiệm mà mỗi người đều sở đắc một hình dung sống động. Chợ phơi bày tất cả, lộ thiên trước mắt, chợ không giấu ta điều gì, nên vì thế, chắc gì ta đã hiểu hết cuộc đời, tâm hồn của chợ… Trong nhận thức, có những điều quá quen thuộc, quá thường ngày, nên, dễ bị trượt đi. Chợ, có lẽ, là một trường hợp điển hình cho sự phụ bạc của nhận thức về cái quá đỗi quen thuộc.”

Công trình này, với Nguyễn Mạnh Tiến bên cạnh cơ hội “trả nợ ngàn xưa” thì về mặt khoa học là “nỗ lực hiểu chức năng chợ trong cấu trúc làng-đơn vị hành chính cơ bản nhất của tổ chức xã hội Việt Nam cổ truyền". Với “Sống đời của chợ”, vùng quét nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Tiến là làng người Việt, ở Bắc bộ và mở rộng thêm ít nhiều ra vùng Thanh-Nghệ.

“Sống đời của chợ” có 3 phần. Phần I: Vào chợ với “Dạo quanh những phiên chợ”, “Mở vào những phiên chợ”. Phần II: Chợ trong cấu trúc chức năng làng với 7 nội dung chuyên sâu đặc biệt thú vị như “Chợ với mạng lưới kinh tế làng xã”, “Chợ-sự triển nở của không gian làng”, “Chợ-nền thương mại đàn bàn” hay “Chợ-mạng lưới thông tin, làn sóng dư luận và tiến trình hình thành tâm lý đám đông làng xã”, “Chợ-không gian văn hóa, hội hè làng mạc và bảo tồn nghệ thuật dân gian”… Phần III: Về chợ thay lời kết rộng với những Phụ chú mang lại cho độc giả sự soi chiếu rộng hơn với tư liệu lịch sử về Lệ lập chợ, Mạng lưới chợ qua các thời kỳ.

Nguyễn Mạnh Tiến viết về chợ như một người trong cuộc, ở cả hai góc độ, trước hết là một người con luôn chờ đợi mẹ trở về sau mỗi buổi “canh khuya, trăng lặn, chợ tàn…” tự thấy “chợ như một người thân đi vào trong cuộc đời” mà mình thì cũng là “một phần thân thể của chợ” và sau nữa là chợ như một đối tượng của nhà nghiên cứu, một sinh quyển của người Việt.

Tiếp cận liên ngành, đã đành, xu thế nghiên cứu khoa học hiện đại, nhưng còn một tiếp cận khác của tác giả vượt lên tất cả, bắt đầu cho tất cả là tiếp cận từ trái tim đến trái tim bằng sự thông hiểu, thấu cảm.

Chợ - những đứt gãy và rạn vỡ

Độc giả có thể chọn cách lang thang cùng Nguyễn Mạnh Tiến qua những buổi chợ phong phú tưởng như bất tận ngay từ cách phân chia, hoặc theo những chức năng của chợ. Chợ theo địa danh, chợ theo tư duy không gian, thời gian, chợ theo cấp độ hành chính, chợ theo các tiêu chí khác… Chợ như không gian văn hóa, mạng lưới thông tin, thậm chí là môi trường thị phạm quyền lực quốc gia, hay chốn ma thuật thương mại của người dân quê. Từ đây hiểu chợ thật cặn kẽ cái thực thể tưởng quá đỗi quen thuộc này.

Thí dụ như, với chức năng quan trọng nhất là kinh tế, Nguyễn Mạnh Tiến chỉ ra nền thương mại quê mùa với mạng lưới chợ địa phương là hạt nhân nội thương được nhà nước thực thi các chính sách bảo hộ để phát triển. Nó kết nối miền núi và đồng bằng, là trái tim trong hoạt động thương mại của làng. Nó là sự mở ra của không gian làng, thực hiện những chức năng đa dạng, linh hoạt của đời sống làng mạc.

Cho dù còn manh mún, nhỏ lẻ, nó cũng cho thấy cái nhìn khác về làng quê Việt Nam truyền thống, về người nông dân, ngoài nông nghiệp thuần túy thì còn những khoảng thời gian buôn bán, phi nông nghiệp…

Câu chuyện về bà cụ H, người xóm Giữa, làng Ngọc Than, chạy chợ từ năm 13 tuổi, đến ngoài 80 vẫn cứ trốn con cháu tìm đến chợ Phú Mỹ bán mớ giầu cau cho “đỡ nhớ”, và phán “tôi có chết cũng phải về chợ trước ăn cái hoa quả xong mới về nhà” - là một hình dung sống động về cái nỗi chợ ăn sâu bám rễ trong đời sống người Việt.

Từ những soi chiếu đa chiều, suốt chiều dài lịch sử, Nguyễn Mạnh Tiến chỉ ra sức sống mạnh mẽ, khả năng tồn tại xuyên thời gian của chợ truyền thống và đặc biệt là những rạn vỡ, đứt gãy của nó trong đời sống hiện đại. Điều này thực sự là quan trọng, khi ta nhìn thẳng vào những rạn vỡ đó như thể nhìn vào một chủ thể có đời sống, có tâm hồn.

Đọc “Sống đời của chợ”, ta nhận ra cái mênh mông tâm hồn, cảm thức Việt trong một hiện tượng, không gian công cộng, văn hóa quá đỗi quen thuộc, bình thường. Ta hiểu ông bà ta xưa và cũng là hiểu mình hơn trong cái toàn thể của cộng đồng, dân tộc.

Thật vậy, tính khách quan trong sự dai dẳng của chợ truyền thống, thậm chí của mạng lưới chợ cóc chợ tạm… đặt ra cho chúng ta một thách thức hiểu chợ như nó vốn là thay vì chỉ đơn thuần là cái đã cũ, cái xấu-bẩn-vi phạm trật tự xã hội… Cũng có thể nhắc lại chuyện hiện đại hóa chợ truyền thống được “nhốt” trong những nhà kính, khiến chợ không còn sinh khí giao lưu sống động.

Những căn nguyên khác cũng được đề cập như cải thiện đời sống người dân để xóa bỏ các hình thức chợ gắn với kinh tế manh mún truyền thống. Và sâu xa hơn là một chiến lược quy hoạch kinh tế nông thôn và đô thị tương thích để chợ hiện diện trong đời sống đương đại với thế cộng hưởng.

Giữ phần tinh hoa của truyền thống

Nguyễn Mạnh Tiến mong muốn nếu có khi nào đó “sách có được vinh hạnh nằm trên tay của người hàng chợ” thì như Tiến gửi hướng dẫn sử dụng sách tới đối tượng độc giả này một cách đầy thương mến: “bạn cũng chẳng cần quan tâm đến phần chú thích. Nhưng riêng phần Phụ lục, nhất là mục Cảm hứng chợ, tôi mong bạn dành chút thời gian nhâm nhi lâu hơn. Bởi đó, như hình dung của tôi, là khoảnh khắc thăng hoa nhất của chợ khi chợ hiện hữu trong cảm quan, không-thời gian nghệ thuật mà chúng ta, người hàng chợ, dù hằng ngày ăn đời ở kiếp với chợ, có thể lại để tuột mất, chưa nhận ra…”.

Phần phụ lục này quả thực là một gửi gắm nhiều tình cảm của tác giả. Đó là chợ qua tác phẩm văn chương và nghệ thuật tạo hình. Tác giả thận trọng khẳng định, nó không phải là sự đối trọng với hiện thực bộn bề về chợ đang được nhận diện, mà là một ký ức đẹp đẽ về chợ như một nét hương xa.

Nét hương xa, như tôi hiểu cũng là tài nguyên tạo văn hoá tạo đà cho phát triển nội lực, cụ thể như phát triển du lịch, kinh tế.

Những lời thở than, những tâm sự tiếc nuối của nhiều người về các chợ truyền thống từng làm thành diện mạo, là căn cước của một vùng đất bị phá dỡ, xóa sổ cần thiết nên được lắng nghe. Những khu chợ thực sự truyền thống với những kiến trúc cầu, đình chợ còn lại và với cảnh quan độc đáo cần được bảo tồn như một di sản quan trọng.

(Nguyễn Mạnh Tiến)

Nguyễn Mạnh Tiến giữ lối viết giàu cảm xúc, một đặc trưng trong ngòi bút của anh, nhưng vẫn mạch lạc tỉnh táo khi tổ chức tư liệu, xâu chuỗi sự kiện, mạch kể.

Đọc “Sống đời của chợ”, ta nhận ra cái mênh mông tâm hồn, cảm thức Việt trong một hiện tượng, không gian công cộng, văn hóa quá đỗi quen thuộc, bình thường. Ta hiểu ông bà ta xưa và cũng là hiểu mình hơn trong cái toàn thể của cộng đồng, dân tộc. Và cũng hiểu vì sao tác giả bày tỏ: “Chợ là sự lựa chọn để từ cái-một có thể hiểu được cái-toàn-thể. Chợ như thế, lại cưu mang tôi một lần nữa trong đời, lần này là hiểu-biết-tôi".

Không gì quan trọng và quý giá hơn cái “hiểu biết bản tôi”, nhất là trong cuộc hội nhập mạnh mẽ và không cưỡng lại được này của thế giới. Hiểu để phát triển, đi tiếp mà bớt đi những đứt gãy, rạn vỡ.

Như tác giả tha thiết bày tỏ: “Những lời thở than, những tâm sự tiếc nuối của nhiều người về các chợ truyền thống từng làm thành diện mạo, là căn cước của một vùng đất bị phá dỡ, xoá sổ cần thiết nên được lắng nghe. Những khu chợ thực sự truyền thống với những kiến trúc cầu, đình chợ còn lại và với cảnh quan độc đáo cần được bảo tồn như một di sản quan trọng”.

Những mong “Sống đời của chợ” sẽ sớm có phần tiếp theo để nối dài hơn những nghiên cứu giá trị và cảm thức văn hóa Việt từ góc nhìn về chợ.

Có thể bạn quan tâm

Một chương trình biểu diễn nghệ thuật quy mô tại Sa Pa. (Ảnh LỮ MAI)

Điểm đến vùng cao và nghệ thuật thực cảnh

Sa Pa (Lào Cai) vừa biểu diễn thành công hai chương trình nghệ thuật thực cảnh quy mô lớn với sự tham gia của đông đảo nhân dân các dân tộc cùng diễn viên chuyên nghiệp, bồi đắp thêm hệ sinh thái du lịch văn hóa cộng đồng ở vùng cao.

Các bạn trẻ hào hứng xem phim "Tổ quốc trong tim: The concert film"

Lan tỏa mạnh mẽ tinh thần yêu nước trong các thế hệ

Tổ quốc trong tim: The Concert Film" đã chính thức phát hành rộng rãi, tạo nên sức hút mạnh mẽ đối với công chúng. Tác phẩm điện ảnh âm nhạc này chinh phục khán giả không chỉ bằng chất lượng nghệ thuật, mà còn bằng khả năng truyền tải cảm xúc thiêng liêng về Tổ quốc, khơi dậy sâu sắc niềm tự hào và tình yêu đất nước.

Liên hoan phim Nhật Bản tại Việt Nam 2025

Liên hoan phim Nhật Bản tại Việt Nam 2025

Theo thông tin từ Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản (The Japan Foundation) tại Việt Nam, Liên hoan phim Nhật Bản 2025 sẽ diễn ra từ ngày 12/12/2025 đến 25/1/2026 tại Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.

Bìa tác phẩm "Huyền thoại thổ thần".

"Huyền thoại thổ thần" - dấu ấn mới của văn học fantasy Việt Nam

Công ty Cổ phần Sách điện tử Waka phối hợp Appota vừa giới thiệu tới bạn đọc tiểu thuyết "Huyền thoại thổ thần" của tác giả Nguyễn Thái Duy. Đây là một trong những dự án fantasy hiếm hoi của văn học Việt được xây dựng như một "vũ trụ" độc lập, kết hợp thần thoại, thổ dân và công nghệ ở quy mô lớn.

Tọa đàm góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa, củng cố quan hệ hợp tác Việt-Pháp, đồng thời khẳng định tiềm năng phát triển mạnh mẽ của điện ảnh Việt Nam trong giai đoạn mới.

Thúc đẩy hợp tác và đầu tư điện ảnh Việt Nam-Pháp

Tại tọa đàm “Điện ảnh Việt Nam và Pháp: Tiềm năng và cơ hội hợp tác” ở Paris ngày 4/12, các nhà quản lý điện ảnh cũng như nhà sản xuất và nghệ sĩ hai nước đã trao đổi về chiến lược phát triển và hội nhập quốc tế của điện ảnh Việt Nam trong bối cảnh mới và triển vọng hợp tác để phục vụ công chúng, đi tranh giải quốc tế.

Các đại biểu tham quan triển lãm.

Kỷ niệm 65 năm ngoại giao Việt Nam-Cuba: Khai mạc triển lãm “Nghĩa tình thủy chung”

Triển lãm “Nghĩa tình thủy chung” kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cuba là sự kiện ý nghĩa, là lời tri ân sâu sắc dành cho mối quan hệ lịch sử giữa hai dân tộc, mối quan hệ đã được hun đúc qua nhiều thế hệ và luôn được gìn giữ như một báu vật vô giá, trở thành tấm gương sáng cho tình đoàn kết quốc tế.

Cảnh trong phim "Nhà hai chủ". (Ảnh: Galaxy Studio)

Phim “Nhà hai chủ” dự kiến ra rạp ngày 26/12

“Nhà hai chủ” là bộ phim do bộ đôi đạo diễn Trần Duy Linh và Phạm Trung Hiếu thực hiện, dựa trên quan niệm dân gian về xây nhà, đã chính thức ra mắt trailer và dự kiến ra rạp vào ngày 26/12 tới.

Tượng voi đá được phụng thờ trong Đền A Sào.

Theo dấu voi chiến về “Đệ nhị sinh từ A Sào”

Lưu giữ dấu tích về thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, khu di tích lịch sử-văn hóa quốc gia Đình, Đền, Bến Tượng A Sào còn gắn với câu chuyện cảm động về chú voi chiến trung nghĩa và câu ca truyền tụng “Đệ nhất sinh từ Kiếp Bạc-Đệ nhị sinh từ A Sào”.

Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội phát động Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời năm 2024. (Ảnh: QUỲNH NGUYỄN)

Thủ đô Hà Nội được UNESCO công nhận là thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Sau quá trình xét duyệt hồ sơ với nhiều tiêu chí rất cao, ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam.

Rie Qudan ký tặng sách cho độc giả Hà Nội.

Tác giả Nhật Bản Rie Qudan: AI và hành trình sáng tác văn học

Rie Qudan là một trong những tác giả trẻ của Nhật Bản sử dụng AI trong công việc sáng tác của mình. Với cô, AI có nhiều tác dụng hữu ích trong nhiều công đoạn của người viết văn, nhưng không thể nào thay thế được khát vọng viết, cảm xúc và những rung động từ trái tim con người.