Chúng tôi là đồng đội

Đã như thành lệ, hằng năm vào khoảng tháng 3, tháng 4, chúng tôi thường gặp gỡ nhau ôn lại những kỷ niệm. Tính từ 1972 là thời điểm chúng tôi nhập ngũ, đến nay đã ngoài 50 năm. Với hơn nửa thế kỷ ấy, anh em chúng tôi đã trải qua rất nhiều thăng trầm. Cũng đã có một số người không may vì vết thương tái phát, vì bạo bệnh mà ra đi! Nhưng những người còn lại vẫn gắn bó với nhau, vẫn động viên nhau và vẫn sống tốt, vẫn giữ gìn được hình ảnh anh Bộ đội Cụ Hồ.
Nhóm bạn chiến đấu gặp nhau sau 50 năm.
Nhóm bạn chiến đấu gặp nhau sau 50 năm.

1/Chúng tôi không gọi nhau là đồng chí, càng không gọi nhau là chiến hữu, mà chỉ gọi nhau là đồng đội. Bởi chúng tôi thấy hai từ đồng đội gợi nhiều đến những tình cảm thân thương và chân thành.

Nói là vẫn thường xuyên gặp gỡ, nhưng thật ra phải hơn 10 năm sau ngày thống nhất đất nước 30/4/1975 chúng tôi mới thật sự “thường xuyên”, bởi sau chiến tranh, ai nấy đều lo toan ổn định cuộc sống của mình. Nhóm bạn bè đồng đội chúng tôi có một đặc điểm hơi khác biệt với nhiều cựu binh khác. Chúng tôi từng là chiến sĩ trực tiếp cầm súng chiến đấu ở mặt trận Quảng Trị trong những năm 1972,1973. Giờ đây chắc không mấy ai hình dung nổi sự ác liệt, gian khổ của cái mặt trận thời ấy được mệnh danh là “cối xay thịt”!

Nhưng chúng tôi còn gặp cái không may là bị đối phương bắt, bị cầm tù một thời gian ngoài đảo Phú Quốc. Là người chiến thắng trở về nhưng bước chân vào cuộc sống của chúng tôi không phải không có những khó khăn. Những năm 1972, 1973 của thế kỷ trước, chúng tôi là những chàng trai 18, 20 tuổi, chưa có nghề nghiệp, chưa được đào tạo ở một trường lớp ngành nghề nào. Để có thể vào đại học, chúng tôi phải cố gắng rất nhiều như tự hoàn chỉnh chương trình phổ thông, theo các lớp ôn luyện thi vào đại học khi chữ nghĩa đã rơi rụng khá nhiều bởi những năm tháng chiến đấu! Thật may, chúng tôi cũng đã vượt qua để sau đó có cơ hội vào một ngành nghề nào đó. Thời bao cấp, đời sống vật chất cũng thiếu thốn. Chúng tôi không chỉ lo học để có kiến thức, chúng tôi còn lo cơm áo, gia đình, vợ con, bởi đến khi đi học, đi làm thì tuổi cũng đã vào lứa 30 hơn kém một chút rồi!

2/Mọi thiếu thốn vật chất, cả những sự chịu đựng bởi những vết thương trên thân thể thỉnh thoảng lại tái phát rồi cũng qua đi. Cái day dứt, chưa vui của anh em chúng tôi là ở những vết thương tinh thần. Anh bạn lớn tuổi của chúng tôi, dược sĩ cao cấp đã từng bị nghi ngờ, phải đình chỉ sinh hoạt Đảng đến ba năm trời, mọi chế độ thương binh, chế độ người có công đều bị dừng lại. Giờ thì mọi quyền lợi của anh đã được khôi phục. Có anh khi đang học đại học năm cuối, tự dưng được nhận giấy báo “ra quân” không một lý do, phải chậm một năm mới minh oan được! Anh khác may mắn hơn, nỗ lực làm việc, vươn lên cán bộ quản lý tại một cơ quan chính phủ, tưởng bình yên thì cuối đời suýt mất mọi chế độ vì một cái đơn thư tố cáo liên quan đến những năm tháng bị đối phương cầm tù… Còn nhiều hoàn cảnh khác nữa. Chỉ xin nhắc lại chuyện xưa để bạn đọc hiểu thêm. Các anh đó thời ở tù từng có người dám một mình vượt ngục và thực tế đã ra khỏi hàng rào giới hạn của đối phương, lên mãi quận lỵ Dương Đông của đảo Phú Quốc, nhưng vì không quen đường nên bị bắt lại. Có anh rất thông minh ứng biến trước bọn tâm lý chiến người Mỹ khi chúng bắt anh hô khẩu hiệu: “Hồ Chí Minh năm bơ then” (Hồ Chí Minh, số 10 - so sánh với Tổng thống Việt Nam cộng hòa: năm bơ oăn - số 1), anh đã dõng dạc: “Hồ Chí Minh Nam Bắc khen” - Anh phát âm trại đi một chút và tên Mỹ cứ tưởng anh thực hiện đúng ý nó khiến tên phiên dịch người Việt cứ trố mắt khâm phục. Cái bất khuất, cái ngang tàng của người lính Cụ Hồ là như thế! Thế mà khi về với đội ngũ của mình lại bị nghi ngờ.

Cũng có đôi ba người trong chúng tôi vì buồn, chán và gia cảnh khó khăn mà có phần bi quan. Chúng tôi đã tìm cách khuyên can bạn mình. Có những anh sống ở giữa thủ đô nhưng nhà chật chội và nghèo đến độ không đủ tiền để làm một buồng vệ sinh. Anh em chúng tôi gom góp, vận động để làm cho gia đình anh… Thực tế những năm sau chiến tranh, anh em chúng tôi phải gồng mình để sống trọn vẹn so rất nhiều người cùng thế hệ. Điều chúng tôi còn lo lắng sâu xa hơn không chỉ là tương lai của mình mà còn lo nhiều về số phận những đứa con, những người vợ. Trong anh em chúng tôi không ít người có những đứa con tật nguyền do chất độc da cam, bị thần kinh, bị thiểu năng… Đây là những nỗi đau mà không thể nào chối bỏ được!

3/Khi viết ra những tâm sự này, tôi thấy biết ơn hơn, trân trọng hơn những hy sinh thầm lặng của những người phụ nữ chấp nhận làm vợ chúng tôi. Khi họ yêu chúng tôi, rồi trở thành vợ, họ đã hồn nhiên yêu thương một người lính mà không một chút nghĩ ngợi cả một đời sẽ phải chia sẻ những tổn thương với người chồng mình. Thật hết sức khâm phục những sự chịu đựng như thế. Cho đến bây giờ, như người viết bài này, tôi đã có được tròn 49 năm gắn bó cùng người vợ của mình và có những đứa con trưởng thành. Tất cả các bạn bè trong nhóm chúng tôi không một ai vì vất vả, khó khăn mà bị vợ xa lánh. Cho nên nói đến tình đồng đội của những người lính thời kháng chiến chống Mỹ, rất cần phải dành một chỗ xứng đáng cho những người vợ.

Có thể nói, so nhiều người từng tham gia chiến đấu trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt, cuối cùng, sau hơn 50 năm, chúng tôi cũng có nhiều may mắn. Chúng tôi đã vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, mọi thương tổn trên cơ thể và thương tổn tinh thần, nhưng chúng tôi là những người có niềm tin yêu vào cuộc sống, chúng tôi bình thản và lạc quan. Chứng minh cho sự lạc quan ấy là câu chuyện mới xảy ra gần đây nhất. Có mấy anh em được mời về thăm chiến trường xưa vào Bảo tàng thành cổ Quảng Trị. Một anh phát hiện tờ giấy báo tử đề tên bạn mình nên nói to: “Ông này là bạn tôi!”. Cô bé hướng dẫn viên hồn nhiên, vui vẻ tiếp lời “Thế ạ, bác! Nếu bác còn giấy báo tử thì cho chúng con xin lại để trưng bày?”. Tất cả đoàn tham quan đều cười phá lên. Những người trải qua cảnh sống chết khốc liệt của một thời và cả người thế hệ sau, chưa trải qua chiến tranh đều nhìn và nghĩ về cuộc sống một cách tự nhiên và lạc quan như thế.

Lần gặp gỡ này của chúng tôi nhân dịp 30/4, kỷ niệm nước nhà thống nhất và kỷ niệm 50 năm chúng tôi ra tù (1973-2023) rất có ý nghĩa. Chúng tôi tổ chức một vài mâm cơm ôn lại chuyện xưa. Cũng có chén rượu, cốc bia, nhưng chúng tôi vẫn không quên những ngày đồng đội chia nhau chén nước trà, điếu thuốc rê, có nhiều đồng đội đã hy sinh, đã đi xa… Chúng tôi cùng đọc lại câu thơ của một đồng đội từng viết: “Những đồng đội đã chết/Xin hãy cùng về đây/Uống một chén trà đầy/Rồi chia tay mãi mãi/Cho dù không sống lại/Nhưng hơi ấm tình quê/Vẫn trọn vẹn tràn trề/Trong tình yêu vĩnh biệt!”.

Có thể bạn quan tâm