Người lao động có lợi?
Nhiều công nhân lao động cho biết, do thu nhập còn thấp, không đủ để trang trải cho cuộc sống nên họ buộc phải làm thêm để cải thiện thu nhập.
Gần hai tháng nay, anh Nguyễn Đức Luận, công nhân đang làm việc tại một công ty chuyên sản xuất bao bì tại KCN Phú Nghĩa thường xuyên đi sớm về muộn, lúc nào anh cũng trong tình trạng bơ phờ, mệt mỏi và gầy đi trông thấy. Theo anh Luận, hiện tại, mức lương cơ bản của anh được hơn bốn triệu đồng/tháng, với số tiền này thì phải chắt bóp chi tiêu và ăn uống tằn tiện mới có thể duy trì được cuộc sống tối thiểu.
Đợt này công ty có nhiều đơn hàng nên anh thường xuyên đăng ký làm tăng ca, nhờ đó cũng có thêm thu nhập để trang trải cuộc sống nhưng đổi lại sức khỏe của anh đang hao mòn nhanh chóng. “Làm thêm cũng tốt, nhất là đối với những lao động có thu nhập thấp như tôi, cuộc sống còn nhiều khó khăn thì làm thêm có lẽ là giải pháp duy nhất để cải thiện thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống. Nhưng đổi lại, sau những giờ làm thêm là cảm giác mệt mỏi, không thiết ăn uống và lúc nào cũng trong tình trạng thiếu ngủ.
Chính vì thế mà tôi cảm thấy sức khỏe mình đang ngày càng giảm sút, cân nặng cũng giảm. Nhiều lúc vì mệt mỏi nên năng suất lao động cũng không được cao. Tôi định sau khi hoàn thành đơn hàng sẽ xin nghỉ một vài ngày để tái tạo sức lao động chứ cứ “cày” suốt như thế này chẳng mấy chốc mà kiệt sức”, anh Luận tâm sự.
Ông Ngọ Duy Hiểu, Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam cho biết: Thực tế những năm qua ở nhiều doanh nghiệp, NLĐ đã phải tham gia làm thêm, tăng ca vượt quy định, thậm chí đến 500-600 giờ/năm. Do vậy, việc xem xét tăng thời giờ làm thêm phải đặt trong mối quan hệ với các yếu tố khác như việc làm, thất nghiệp, sức khỏe của NLĐ, môi trường làm việc, an toàn lao động, tổng số giờ làm chính thức của NLĐ, các vấn đề về xã hội… và cả xu hướng tiến bộ của thế giới hiện nay (giảm giờ làm, tăng thời gian nghỉ ngơi).
Bên cạnh đó, việc tăng giờ làm thêm phải tính toán trong mối tương quan với thời giờ làm việc chính thức, bảo đảm tái tạo kịp thời sức lao động cho NLĐ. Hiện nay, quy định về thời giờ làm việc chính thức của Việt Nam rất cao (48 giờ/tuần, mức cao nhất trong khuyến nghị về thời giờ làm việc hàng tuần của ILO và là mức cao nhất trên thế giới), trong khi hầu hết các nước đang duy trì 40 giờ hoặc 35 giờ/tuần, số ngày nghỉ lễ, Tết còn ít so với các nước trong khu vực và thế giới.
Tránh tình trạng người sử dụng lao động “vắt sức” NLĐ
Ông Lê Đình Quảng, Phó Trưởng Ban Quan hệ Lao động, Tổng LĐLĐ Việt Nam cho rằng, trong bối cảnh Việt Nam với thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình thấp (2.340 USD năm 2017), năng suất lao động còn ở mức thấp… thì mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ là nhu cầu có thật để góp phần tăng thu nhập, thúc đẩy sản xuất ,kinh doanh. Dự thảo xác định việc trả lương lũy tiến làm thêm giờ. Như vậy, so với pháp luật hiện hành, dự thảo luật đã bỏ giới hạn trần làm thêm giờ trong tháng và mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ trong các trường hợp đặc biệt tăng thêm 100 giờ/năm.
Về giới hạn làm thêm giờ tối đa trong tháng, theo ông Lê Đình Quảng, Bộ luật Lao động hiện hành đang quy định giới hạn số giờ làm thêm trong ngày (không quá 50% số giờ làm việc bình thường), trong tháng (không quá 30 giờ) và trong năm. Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) hiện bỏ quy định về giới hạn làm thêm giờ tối đa trong tháng.
Tuy nhiên, để tránh tình trạng người sử dụng lao động “vắt sức” NLĐ để làm thêm giờ trong một khoảng thời gian dài liên tục trong bối cảnh tăng thời gian làm thêm giờ trong năm, đề nghị cần tiếp tục duy trì giới hạn trần làm thêm giờ trong một tháng, song có thể xem xét để nới rộng giờ làm thêm tối đa trong tháng.
Về thời giờ làm việc bình thường, Tổng LĐLĐ Việt Nam cho rằng, xu hướng giảm giờ làm là xu hướng tiến bộ của loài người trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất, bảo đảm tăng năng suất lao động, phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp nhưng duy trì được sức khỏe, khả năng tái tạo sức lao động cũng như có thời gian chăm sóc gia đình và tham gia các hoạt động xã hội của NLĐ.
Hiện nay, với quy định thời giờ làm việc bình thường của NLĐ là 48 giờ/tuần, số giờ làm việc của Việt Nam cao hơn so nhiều nước trong khu vực và thế giới. Trong lúc đó, từ năm 1999, Việt Nam đã thực hiện chế độ làm việc 40 giờ/tuần trong các cơ quan Nhà nước (Quyết định số 188/1999/QĐ-TTg ngày 17-9-1999 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ).
Đến nay, sau 20 năm, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng quy định thời giờ làm việc 40 giờ/tuần vẫn chỉ được thực hiện đối với công chức, viên chức, NLĐ trong các cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Trong nhiều năm, quy định này đã tạo ra khoảng cách và sự phân biệt khá lớn giữa người làm công ăn lương trong khu vực Nhà nước và người lao động khu vực ngoài Nhà nước, tạo ra sự bất bình đẳng trong lực lượng lao động.
Vì vậy, cùng với việc mở rộng khung thỏa thuận về thời giờ làm thêm, thì việc xem xét để giảm thời giờ làm việc bình thường của NLĐ từ “48 giờ trong một tuần” xuống “44 giờ trong một tuần” vào thời điểm hiện nay là cần thiết và có cơ sở.