Kiểm soát rủi ro trái phiếu doanh nghiệp

Thông tư 16/2021/TT-NHNN và dự thảo sửa đổi Thông tư 39/2016/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) có tác động không nhỏ tới việc huy động vốn của các doanh nghiệp thông qua kênh phát hành trái phiếu, đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động sản. Nhưng đây cũng là cơ hội để các đơn vị phát hành trái phiếu xem xét lại cơ chế, nâng cao tín nhiệm, tăng cường minh bạch thông tin...
0:00 / 0:00
0:00
Sáu tháng đầu năm 2022, giá trị phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp bất động sản giảm mạnh. Ảnh: NG.NAM
Sáu tháng đầu năm 2022, giá trị phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp bất động sản giảm mạnh. Ảnh: NG.NAM

Theo thông tin từ Fiin, nhìn chung, các doanh nghiệp bất động sản ghi nhận giá trị phát hành trái phiếu giảm mạnh với giá trị chỉ hơn 51 nghìn tỷ đồng trong sáu tháng đầu năm 2022, giảm gần 37% so cùng kỳ năm ngoái. Thay vào đó, các tổ chức tài chính nổi lên như những nhà phát hành trái phiếu lớn nhất để tăng vốn cấp 2 trên lộ trình đạt được Basel III và sử dụng kênh trái phiếu để tối ưu hóa vốn thông qua repo trái phiếu.

Đáng chú ý, ngành năng lượng không ghi nhận giao dịch phát hành lớn nào trong nửa đầu năm. Trong số gần 300 đợt phát hành trái phiếu từ 137 tổ chức trong nửa đầu năm 2022, khoảng 44% là từ các công ty niêm yết. Điều này một phần do yêu cầu về tiêu chuẩn phát hành cao hơn sau sự kiện Tân Hoàng Minh cũng như việc NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng không mua trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết theo Thông tư 16, có hiệu lực từ ngày 15/1/2022.

Mặc dù một số đợt phát hành trong tháng 7 có kỳ hạn dài hơn, nhưng kỳ hạn trung bình của trái phiếu doanh nghiệp đã giảm mạnh từ 4,5 năm (năm 2021) xuống còn 3,3 năm (năm 2022). Điều này cho thấy rằng các nhà đầu tư lo ngại về rủi ro tín dụng gia tăng, vì vậy họ có xu hướng lựa chọn các kỳ hạn đầu tư ngắn hơn. Lãi suất bình quân sáu tháng đầu năm 2022 không quá chênh lệch so năm 2021 khi chỉ giảm 0,17% và đạt bình quân 8,8% / năm.

Hoạt động mua lại sớm trái phiếu tiếp tục gia tăng với tổng giá trị đạt 72,29 nghìn tỷ đồng, tăng 22% so cùng kỳ năm ngoái và tập trung vào trái phiếu có kỳ hạn từ 1-3 năm. Ngoài các ngân hàng thương mại, các tổ chức phát hành trái phiếu bất động sản đã mua lại trước hạn 16,2 nghìn tỷ đồng trong sáu tháng đầu năm 2022. Hoạt động mua lại trước hạn trở nên sôi động hơn trong giai đoạn này nhằm giảm rủi ro đáo hạn nợ kể từ khi dự án triển khai, chậm tiến độ, cũng như để giảm áp lực thanh toán hợp đồng mua trái phiếu trước thời hạn theo yêu cầu của trái chủ sau sự kiện Tân Hoàng Minh vào tháng 4/2022.

Thanh khoản bất động sản đình trệ, cấp phép dự án và kiểm soát tín dụng đã làm chậm quá trình triển khai và bán hàng của dự án. Điều này làm cho số ngày tồn kho trung bình của các công ty bất động sản niêm yết leo thang lên 1.497 ngày vào cuối tháng 6/2022 (có nghĩa là phải mất hơn bốn năm để giải phóng hàng tồn kho). Đây là thời gian tồn kho đáng báo động đối với các doanh nghiệp bất động sản. Điều này trở nên đáng chú ý khi các doanh nghiệp bất động sản niêm yết giảm 49% doanh thu, lợi nhuận sau thuế giảm 72,5% trong quý II/2022 và hoạt động tài chính kém với dự báo lợi nhuận chỉ ở mức 2% vào năm 2022.

Khảo sát thị trường cho thấy cung và cầu trái phiếu bị ảnh hưởng bởi Thông tư 16/2021/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 15/1/2022 nhằm kiểm soát rủi ro trái phiếu doanh nghiệp đối với các tổ chức tín dụng.

Thông tư 16/2021/TT-NHNN có các quy định thay đổi như sau: 1/Tỷ lệ nợ xấu dưới 3% theo phân loại mới nhất theo quy định của NHNN trước ngày mua trái phiếu doanh nghiệp; 2/Một tổ chức tín dụng không được phép mua trái phiếu doanh nghiệp để: a) cơ cấu lại khoản nợ của tổ chức phát hành; b) góp vốn, mua cổ phần vào doanh nghiệp khác; c) tăng vốn lưu động; 3/Không được mua trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết mà tổ chức tín dụng đã bán và/hoặc trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết cùng đợt/kỳ với trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết đã bán mà tổ chức tín dụng đã bán trên 12 tháng. Không được phép bán trái phiếu công ty cho các công ty con của họ...

Theo đó, quy định 1 cung cấp an toàn rủi ro và thắt chặt giám sát đối với các ngân hàng có sức khỏe tài chính kém muốn mua trái phiếu doanh nghiệp, vì trái phiếu doanh nghiệp có đặc điểm dài hạn và điều kiện phát hành tương đối dễ hơn so với các khoản vay.

Quy định 2 hạn chế khả năng tái cấp vốn giữa các khoản tín dụng ngân hàng và trái phiếu, bao gồm cả việc các ngân hàng thương mại giải ngân vốn để giúp doanh nghiệp trả nợ cho trái chủ. Đồng thời, quy định cũng yêu cầu các ngân hàng thương mại đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm trái phiếu của riêng mình. Nó cũng hạn chế các ngân hàng nhận thêm rủi ro vốn chủ sở hữu ngoài rủi ro tín dụng để hạn chế rủi ro liên ngân hàng.

Quy định 3 đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng, bao gồm cả trái phiếu, là mục tiêu tăng trưởng của từng ngân hàng cụ thể và được NHNN xác định cho từng ngân hàng dựa trên đánh giá xếp hạng riêng của NHNN. Quy định này nhằm tránh việc các ngân hàng sử dụng repo (nghiệp vụ phái sinh từ các nghiệp vụ cho vay có bảo đảm) để bán (và cam kết mua lại) để tăng “room” tín dụng trong thời gian tới. Trên thực tế, nhiều đợt phát hành trái phiếu chỉ đơn thuần là hoạt động cho vay. Do đó, quy định này là cần thiết để bảo đảm các mục đích cốt lõi của việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Ngoài Thông tư 16, dự thảo sửa đổi Thông tư 39/2016/TT-NHNN cũng có khả năng thu hẹp nguồn huy động vốn. Để thích nghi với các sửa đổi trên, các đơn vị phát hành trái phiếu cần có những biện pháp đẩy mạnh tận dụng các nguồn vốn, tránh việc bị động khi nguồn vốn bị thu hẹp, nâng cao tín nhiệm, xếp hạng tín dụng...

Doanh nghiệp cần tận dụng các kênh vốn từ khách hàng bằng cách hoàn thiện pháp lý, thủ tục và tiến độ triển khai dự án để có thể mở bán và nhận tiền đặt trước từ khách hàng (đặc biệt là khách hàng cá nhân). Song song đó, họ cần chuẩn bị các kế hoạch tài chính hấp dẫn để tăng tốc độ thu tiền trả trước. Tận dụng vốn từ các đối tác kinh doanh và nhà cung cấp vốn lưu động. Xây dựng và hoàn thiện hồ sơ tín dụng trên thị trường vốn là giải pháp cơ bản hướng tới một chiến lược vốn tối ưu, thay vì chỉ thực hiện khi có nhu cầu huy động vốn. Đồng thời, xem xét nâng cao xếp hạng tín nhiệm và tăng cường minh bạch thông tin và rủi ro đối với thị trường trong và ngoài nước.

Việc nâng cao xếp hạng tín nhiệm sẽ giúp không chỉ các nhà đầu tư cá nhân mà cả các nhà đầu tư thương mại lựa chọn, đánh giá và cho vay tín dụng phù hợp với phương hướng và chỉ đạo của NHNN: kiểm soát chặt chẽ rủi ro tín dụng bất động sản. Giúp “đồng bộ hóa” thông tin về chất lượng tín dụng trái phiếu và tín dụng ngân hàng, từ đó hỗ trợ chéo giám sát rủi ro vỡ nợ của thị trường tín dụng nói chung.