Định vị và phát triển kinh tế tư nhân

Kỳ 1: Tạo niềm tin từ hành trình đổi mới

Các tập đoàn kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò và đóng góp to lớn cho nền kinh tế. Ảnh: HẢI NAM
Các tập đoàn kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò và đóng góp to lớn cho nền kinh tế. Ảnh: HẢI NAM

Cụ thể hóa định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng có trong Nghị quyết số 05-NQ/TW (NQ 05), tại Nghị quyết số 10-NQ/TW (NQ 10) năm 2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã xác định, kinh tế tư nhân (KTTN) là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (ĐHXHCN). Và NQ 10 cũng nêu rõ mục tiêu, phấn đấu đến năm 2025, khu vực kinh tế này sẽ đóng góp khoảng 55% GDP của nền kinh tế, đến năm 2030 khoảng 60 - 65%.

Quyết sách khởi tạo động lực

Tại Diễn đàn “Thực hiện NQ 10: Tiếp tục hoàn thiện môi trường phát triển KTTN”, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Hoàng Quang Phòng đã đưa ra đánh giá, NQ 10 được ban hành với những định hướng rất rõ ràng và nhận được sự đồng thuận của cộng đồng DN. Sự ra đời của NQ 10 đã trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường ĐHXHCN, tạo sự hứng khởi cho cộng đồng DN và toàn xã hội. NQ 10 đã được thực hiện một cách nghiêm túc, hiệu quả, xuyên suốt từ các ban, ngành T.Ư đến địa phương... đạt được mục tiêu ban đầu đề ra. 

Thực tế, tại Việt Nam, các tập đoàn KTTN ngày càng khẳng định vai trò và đóng góp to lớn cho nền kinh tế, trở thành mũi nhọn tại một số lĩnh vực đầu tư như du lịch, chế biến thực phẩm, công nghệ viễn thông... Điển hình trong đó là: Sun Group, Vingroup, Thaco, Masan, FPT… Các tập đoàn này không chỉ dẫn đầu ở các lĩnh vực hoạt động trong nước, mà đã và đang xây dựng, phát triển thành công những sản phẩm, công trình mang tầm vóc khu vực và thế giới, giúp thăng hạng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Ở vị thế DN lớn, Sun Group được biết đến là DN đang tạo nên những chuỗi giá trị sản xuất mới, với kỳ vọng lớn với các ngành, lĩnh vực mà trước nay DN Việt Nam e ngại. Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Sun Group Đặng Minh Trường cho rằng, thời gian qua, Nhà nước đã có những định hướng cụ thể và có chính sách hỗ trợ DN xây dựng và phát triển thương hiệu, nhất là tạo chỗ đứng trên thị trường thế giới để không chỉ gia tăng nhanh chóng quan hệ thương mại và đầu tư, mà còn có thể tham gia đấu thầu quốc tế những dự án quy mô lớn mà hiện nhiều tập đoàn kinh tế nước ta đủ sức thực hiện. KTTN hiện đã tham gia ở tất cả lĩnh vực, từ sản xuất, thương mại đến dịch vụ, hay thậm chí cả những dịch vụ công. Cộng đồng doanh nghiệp tư nhân (DNTN) mong muốn có được sự “cởi trói”, sự ủng hộ mạnh mẽ hơn nữa để DNTN được đóng góp nhiều hơn nữa cho đất nước, được tham gia vào những lĩnh vực mà trước nay chỉ có DNNN làm hoặc chỉ có các tập đoàn nước ngoài có thể làm được.

Cùng quan điểm này, khi nhắc tới quá trình thay đổi toàn diện của Vingroup, với tầm nhìn dài hạn là trở thành tập đoàn công nghệ - công nghiệp - thương mại và dịch vụ đẳng cấp quốc tế, Vingroup đã không quên gắn với khát vọng xây dựng một thương hiệu Việt Nam có tầm vóc thế giới, mang lại sự thay đổi đột phá cho khu vực KTTN Việt Nam, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Vingroup Võ Quang Huệ chia sẻ, thực tế đã chứng minh, các DNTN hoàn toàn có thể đóng góp hơn nữa cho GDP và tạo ra nhiều việc làm, nếu sẵn sàng đổi mới, sáng tạo và được hỗ trợ về cơ chế, chính sách để đầu tư vào những lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, mức độ lan tỏa lớn và áp dụng phương thức sản xuất hiện đại.

Nỗ lực khẳng định vai trò, vị thế

Theo đại diện của VCCI, trong năm 2017, một năm sau khi NQ 10 ra đời, khu vực KTTN đã đóng góp khoảng 40% GDP, chiếm ưu thế so khu vực DNNN và DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Song, trong suốt 5 năm qua, dù đã đạt được rất nhiều thành quả đáng ghi nhận, nhưng rõ ràng hiệu quả hoạt động của khu vực DNTN trong nước còn chưa được cải thiện thật sự đáng kể. Trên thực tế, khu vực KTTN vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Minh chứng rõ nét nhất là trong số các DNTN đang hoạt động thì DN lớn chỉ chiếm chưa đầy 2%, DN loại vừa chiếm 2%, còn lại 96% là DN nhỏ và siêu nhỏ. Mặt khác, khu vực này đang phải đối mặt với rất nhiều rào cản, như: chưa có sự thống nhất cao về nhận thức, về sự phát triển, về môi trường kinh doanh (MTKD), sự bất bình đẳng giữa khu vực KTTN với khu vực kinh tế nhà nước và khu vực FDI…

Ngoài ra, khu vực KTTN cũng gặp phải những thách thức tương tự như các DN khác trong nước như về vấn đề chất lượng nguồn nhân lực, chi phí lương và bảo hiểm ngày càng cao, chi phí logistics lớn... Đây là những thách thức cần phải giải quyết để giúp DNTN Việt Nam cạnh tranh được với các DN trên thế giới. Bên cạnh đó, số lượng DN và chất lượng DN phát triển chưa tỷ lệ thuận, như DNTN mới chỉ đóng góp gần 8% GDP, phần lớn còn lại thuộc về khu vực kinh tế cá thể, hộ gia đình.

Theo Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư (CIEM) Phan Đức Hiếu, qua 35 năm đổi mới, Đảng ta đã ban hành nhiều NQ thừa nhận và khẳng định vai trò và vị thế của KTTN. Từ “Có vị trí quan trọng lâu dài” (trong văn kiện Đại hội Đảng IX) đến “Có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế” (trong văn kiện Đại hội Đảng X và XI) và “Là một động lực quan trọng của nền kinh tế” (trong văn kiện Đại hội XII và NQ 10 của Hội nghị T.Ư 5 khóa XII). Theo đó, hàng loạt những quyết sách lớn của Đảng về phát triển KTTN đã được ban hành và triển khai thực hiện. 

Cho đến thời điểm này, KTTN liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 42 - 43% GDP. KTTN thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế. KTTN cũng góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội...

Dẫn ra số liệu này, ông Phan Đức Hiếu cho rằng, vai trò, vị thế của KTTN ngày càng được khẳng định và thể hiện rõ nét thông qua những đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, lực lượng DNTN đã góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm thay đổi “diện mạo” đất nước, tạo dấu ấn, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhiều thương hiệu của các tập đoàn tư nhân được hình thành và có tính cạnh tranh khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, chất lượng phát triển của khu vực KTTN vẫn còn hạn chế ở nhiều mặt. Khu vực KTTN chưa thật sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế.

Ở một góc nhìn khác, dẫn lại nội dung một nghiên cứu về các rào cản đối với khu vực DNTN của Trường đại học Kinh tế quốc dân về việc khu vực KTTN vẫn tiếp tục gặp nhiều rào cản trong việc gia nhập ngành, khó tiếp cận vốn và gặp nhiều khó khăn liên quan đến các thủ tục thuế và hải quan, ông Phan Đức Hiếu cho rằng, tính toán từ mẫu điều tra 699 DN của báo cáo nghiên cứu này cho thấy, khu vực KTTN phải tiêu tốn thời gian cho các thủ tục thuế và hải quan nhiều hơn so khu vực DNNN. Dù đã có nhiều hỗ trợ và định hướng rõ ràng như vậy song khu vực KTTN vẫn còn manh mún. Rõ ràng nền kinh tế Việt Nam vẫn đang thiếu trầm trọng các DN cỡ vừa để trở thành các kênh kết nối vào chuỗi giá trị toàn cầu và trực tiếp tham gia vào thị trường quốc tế. 

Theo GS Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài, quá trình phát triển của các tập đoàn kinh tế cũng nảy sinh nhiều đòi hỏi phải có hành lang pháp lý phù hợp, để vừa thực hiện đúng đường lối của Đảng, vừa tạo tiền đề để có thêm nhiều tập đoàn hùng mạnh, đạt tầm khu vực và thế giới.

(Còn nữa)