Tăng trưởng nhiều mặt
Mới đây, dựa trên mục tiêu của giai đoạn 2021-2025, cùng với phấn đấu đạt mức tăng trưởng cao nhất trong năm 2023, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã công bố ba kịch bản tăng trưởng kinh tế năm tới. Trong kịch bản đầu tiên, giả định tăng trưởng toàn cầu sẽ ở mức vừa phải và sự phục hồi của thương mại và đầu tư toàn cầu tiếp tục gặp nhiều trở ngại, mục tiêu đặt ra là tăng trưởng GDP 6%.
Trong kịch bản thứ hai, bộ dự kiến mức tăng trưởng GDP là 6,5%, giả định rằng, cả nền kinh tế khu vực và toàn cầu đều phục hồi nhanh hơn dự đoán của các tổ chức quốc tế. Kịch bản này cũng tính đến sự gia tăng về nhu cầu, thương mại và đầu tư. Thị trường trong nước có thể sẽ đồng thời hồi phục về nhu cầu, hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, đầu tư và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tăng trưởng GDP dự kiến sẽ dao động từ 6% đến 6,5% trong kịch bản thứ ba, phản ánh những thay đổi tích cực nhanh chóng cả trong nước và trên thế giới.
Thực tế, tăng trưởng GDP quý III/2023 đạt 5,3% với lĩnh vực dịch vụ là động lực chính, đạt mức tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Sự tăng trưởng này phần lớn nhờ vào sự quay trở lại của khách du lịch quốc tế sau khi nới lỏng chính sách thị thực. Trong khi đó, khu vực công nghiệp và xây dựng ghi nhận mức tăng 5,2%, nhờ các ngành sản xuất và xây dựng. Ngành nông nghiệp tăng trưởng 3,7% được đánh giá là mức ổn định trong thời gian dài.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 9 tháng đầu năm 2023 tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước, tiêu dùng nội địa tăng 7,4%. Trong khi đó, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 tăng 3,66% so với cùng kỳ năm trước, trong 11 nhóm tiêu dùng chính, có đến 10 nhóm tăng giá. Đây là tín hiệu tích cực cho thấy sức mua của người dân đang dần phục hồi sau dịch Covid-19. Tiêu dùng nội địa tăng trưởng sẽ tạo đà cho tăng trưởng kinh tế. Bởi tiêu dùng là một trong những động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế, chiếm khoảng 70% GDP của Việt Nam. Khi tiêu dùng tăng, sẽ thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, thu nhập cho người dân.
Tháng 9 chứng kiến xuất khẩu phục hồi với mức tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước, là tháng có mức tăng tích cực đầu tiên kể từ tháng 11 năm 2022. Số liệu nhập khẩu cũng được cải thiện, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước. Thặng dư thương mại đạt 21,7 tỷ USD trong chín tháng đầu năm. Giải ngân FDI vẫn tăng mạnh, với gần 16 tỷ USD được giải ngân trong chín tháng năm 2023, đánh dấu mức tăng 2,2% so với cùng kỳ. Chỉ số mua hàng sản xuất (PMI) đạt 49,7, giảm xuống dưới mức 50,0 sau khi đạt 50,5 trong tháng trước. Mặc dù nhu cầu tiếp tục tăng nhưng các nhà sản xuất cho thấy số lượng đơn đặt hàng mới nhận được vẫn tương đối khiêm tốn.
Riêng vốn từ ngân sách nhà nước (đầu tư công) thực hiện quý III/2023 ước đạt gần 183 nghìn tỷ đồng, bằng 25,3% kế hoạch năm, tăng 30,1% so với quý II và tăng 27,3% cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng năm 2023, vốn từ ngân sách nhà nước ước đạt gần 415,5 nghìn tỷ đồng, bằng 57,4% kế hoạch năm và tăng 23,5% cùng kỳ năm trước. Theo nhận định của Tổng cục Thống kê, con số này là rất lớn, thể hiện rõ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự quyết tâm của các bộ, ngành và địa phương đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án/công trình trọng điểm, nhiều công trình đã được đưa vào sử dụng như: Dự án đường cao tốc bắc - nam phía Đông đoạn Nghi Sơn - Diễn Châu; Dự án cao tốc Vĩnh Hảo - Phan Thiết; Dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 32 đoạn Hà Nội - Sơn Tây;…
Đầu tư công đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần kích thích tổng cầu, tạo việc làm, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Trong năm nay, Chính phủ đã dành khoảng 40% tổng chi ngân sách cho đầu tư công, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Nhận định thời gian sắp tới, Vụ trưởng Vụ Thống kê công nghiệp và xây dựng thuộc Tổng cục Thống kê Phí Phương Nga cho biết, Thủ tướng Chính phủ đã giao kế hoạch vốn ngân sách nhà nước năm 2023 là 707,04 nghìn tỷ đồng. Còn khoảng 344 nghìn tỷ đồng cần giải ngân trong thời gian còn lại của kế hoạch đầu tư công năm 2023. Chính vì vậy, những tháng còn lại cuối cùng của năm 2023 cần tập trung quyết liệt thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm đạt mục tiêu đề ra như: tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh toàn bộ hoạt động dự án đầu tư công từ khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án,…; đẩy mạnh giải ngân đi đôi với bảo đảm chất lượng công trình, hiệu quả; tăng cường phối hợp giữa các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương, đơn vị, bảo đảm hiệu quả, không để vướng mắc kéo dài không giải quyết, gây ách tắc, lãng phí nguồn lực vốn,…
Doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 9 tháng đầu năm 2023 tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Ảnh: NAM ANH |
Kỳ vọng vào năm mới
Đồng Việt Nam (VND) đã mất giá so với USD trong thời gian qua, với mức giảm 1% trong tháng 9/2023 và 3,3% tính đến thời điểm hiện tại. Đây là mức mất giá đáng kể, sau khi VND đã được giữ ổn định trong một thời gian dài.
Theo vụ chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc VND mất giá như: sự thắt chặt chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) và duy trì lãi suất ở mức cao trong khi lãi suất điều hành của NHNN và lãi suất thị trường trong nước giảm, tạo áp lực khiến tỷ giá USD/VND trong nước tăng trở lại. Hay sự suy thoái kinh tế toàn cầu. Kinh tế thế giới đang đối mặt với nhiều rủi ro, bao gồm lạm phát cao, giá cả hàng hóa tăng và xung đột Nga - Ukraine. Điều này khiến các nhà đầu tư lo ngại về triển vọng tăng trưởng kinh tế, dẫn đến nhu cầu mua USD giảm,…
Mức mất giá 3,3% của VND là đáng kể, tuy nhiên, vẫn thấp hơn nhiều so với mức mất giá của nhiều đồng tiền khác trong khu vực. Thí dụ, đồng baht Thailand đã mất giá 6,5%, đồng rupee Ấn Độ đã mất giá 5,5% và đồng won Hàn Quốc đã mất giá 5%. Việc VND mất giá có thể mang lại một số lợi ích cho xuất khẩu và lạm phát (do giảm chi phí nhập khẩu). Tuy nhiên, việc VND mất giá cũng có thể gây ra một số rủi ro, bao gồm: giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nước tăng cao, làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Trong tháng 9/2023, lãi suất tiền gửi tiết kiệm tiếp tục được các ngân hàng điều chỉnh giảm, VPBank giảm tới 1%/năm lãi suất ở nhiều kỳ hạn, đưa lãi suất xuống sâu dưới mức 6%/năm. Lãi suất huy động kỳ hạn từ 6 - 13 tháng còn 5,5 - 5,8%/năm. Hay tại ngân hàng ACB, lãi suất huy động cao nhất 5,8%/năm áp dụng cho kỳ hạn gửi từ sáu tháng trở lên, với hình thức tiết kiệm trực tuyến. Ngay cả với ngân hàng quy mô nhỏ như VietABank, mức lãi suất huy động cao nhất cũng chỉ còn 6,4%/năm cho kỳ hạn 12 - 36 tháng.
Theo các chuyên gia kinh tế, dư địa để giảm lãi suất điều hành của NHNN không còn nhiều và mặt bằng lãi suất tiết kiệm khó giảm sâu thêm. Tuy nhiên, hạ lãi suất có thể hỗ trợ doanh nghiệp, giúp khơi thông dòng vốn trong nền kinh tế, nhưng thách thức đến từ lạm phát, tỷ giá đang dần xuất hiện.
“Lạm phát vẫn là một mối lo, bởi kinh tế thế giới chưa phục hồi, giá dầu tăng, giá nguyên vật liệu tăng khiến áp lực lạm phát đối với Việt Nam có thể tăng trong thời gian tới. Đối với tỷ giá, lãi suất tại Việt Nam giảm, trong khi các nước vẫn thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất, dẫn đến chênh lệch lãi suất giữa nội tệ và ngoại tệ nới rộng. Theo đó, dòng vốn nước ngoài có thể dịch chuyển đến những nơi có lãi suất cao hơn, từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ giá”, TS Châu Đình Linh, Trường đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh nhận định.
Mức lãi suất cho vay đã được các ngân hàng cam kết giảm từ 0,2 - 2,5%/năm trong sáu tháng cuối năm 2023, tùy đối tượng khách hàng và lĩnh vực. Về mặt tâm lý, lãi suất thấp giúp tạo niềm tin cho nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Lãi suất thấp cho thấy nền kinh tế đang ổn định, có tiềm năng tăng trưởng. Điều này có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, giúp tăng nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế. Song nếu doanh nghiệp không tiếp cận được nguồn vốn giá rẻ thì chính sách giảm lãi suất không mang nhiều ý nghĩa.
Cũng trong tháng 9, tuy chỉ số VN Index giảm mạnh 6,6%, thu hẹp lợi nhuận so với đầu năm xuống 12,7%, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn được đánh giá tích cực nhờ sự hỗ trợ bởi các chỉ số như đơn hàng xuất khẩu và chi tiêu công tăng, được kỳ vọng sẽ thúc đẩy phục hồi kinh tế trong các quý tới. Khối lượng giao dịch bình quân hằng ngày trên ba sàn tăng nhẹ 2,8% so với tháng trước, đạt 1,1 tỷ USD. Nhà đầu tư nước ngoài tận dụng sự điều chỉnh của thị trường, tích cực tích lũy cổ phiếu trong tuần cuối tháng 9. Điều này làm giảm lượng bán ròng của khối ngoại xuống còn 165 triệu USD trong tháng. Tính từ đầu năm đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn bán ròng với tổng doanh thu ròng là 288 triệu USD.
Hướng tới năm 2024, mức tăng trưởng thu nhập đáng kể của 100 công ty hàng đầu theo vốn hóa thị trường được dự đoán sẽ tăng 18,4% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, sau khi thị trường điều chỉnh, giá cổ phiếu ở một số ngành đã giảm xuống mức hấp dẫn. Do đó, đây có thể là cơ hội tốt để mua cổ phiếu của các công ty có tình hình tài chính lành mạnh với mức giá hợp lý. Dòng tiền vào thị trường chứng khoán sẽ bảo đảm những điều kiện thuận lợi hơn nữa cho đà phục hồi của kinh tế Việt Nam.