Sức hút từ hai cuốn sách về chiến tranh

Vì sao người ta tìm đến thể loại hồi ký? Đó là vấn đề lớn cần có sự lý giải kỹ lưỡng, thỏa đáng. Nhưng theo chúng tôi, cái hay của hồi ký là ở chỗ phi hư cấu, chân thật, chân thật đến tận cùng. Độc giả tìm đến với hồi ký là để hiểu biết về một thời đã qua, về những con người sống trong thời đại ấy.
Bìa hai cuốn sách do Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông xuất bản năm 2024.
Bìa hai cuốn sách do Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông xuất bản năm 2024.

Từ chuyện của một người mà biết được, hình dung được cả một thế hệ, cả một giai đoạn lịch sử, với đủ các chiều kích, tư tưởng, tình cảm, hành động. Không chỉ thế, vấn đề mà tác phẩm đề cập còn góp phần lý giải, trả lời các câu hỏi không chỉ trong quá khứ. Đúng như nhà phê bình văn học Nga Belinsky đã viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau, nếu nó không đặt ra những câu hỏi, hoặc trả lời những câu hỏi đó”.

1. Những năm gần đây, nhiều người viết hồi ký, tự truyện. Một số tác phẩm xuất sắc, có tiếng vang lớn không chỉ trong nước mà còn được dịch, hợp tác xuất bản ở nước ngoài, như bộ hồi ký hai tập của Lý Quang Diệu - cố Thủ tướng Singapore. Tập 1 - “Câu chuyện Singapore” trình bày quan điểm của ông về lịch sử Đảo quốc Sư tử cho đến khi tách rời khỏi Malaysia năm 1965; tập 2 - “Từ thế giới thứ ba vươn lên thứ nhất”, thuật lại sự chuyển đổi của Singapore để trở mình từ đất nước nghèo khổ thành một “Con rồng châu Á”. Bộ hồi ký quý giá này được nhiều chính khách, nhà nghiên cứu tìm đọc vì nó có sức hút kỳ lạ như lời của nguyên Tổng Thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan: “Câu chuyện được kể thẳng thắn bằng văn phong rất trong sáng và thú vị. Cuốn sách có sức thu hút kỳ lạ”.

Ở nước ta, trong số những hồi ký xuất sắc được xuất bản gần đây phải kể đến “Gánh gánh gồng gồng”, tác phẩm được tặng Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Tác giả là bà Xuân Phượng (sinh năm 1929). Tác phẩm viết từ gan ruột này đã chạm đến trái tim người đọc với sự ấm áp, can trường của một người phụ nữ mà cuộc đời gắn bó với lịch sử dân tộc.

Trong đội ngũ trập trùng các “nhà hồi ký” với đủ các lứa tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, có Trung tướng, nhà văn Nguyễn Mạnh Đẩu. Hồi ký “Những nẻo đường thời gian” xuyên suốt một không gian rộng lớn từ bắc chí nam, xuyên suốt một quãng thời gian hơn nửa thế kỷ. Những nhân vật mà tác giả nhắc đến tới cả vài trăm người, nhưng đều có đủ họ tên, chức vụ, nhiệm vụ. Lúc ở chiến trường Quảng Trị, Đường 9-Nam Lào, người lính trẻ Nguyễn Mạnh Đẩu có ghi một cuốn nhật ký. Rất tiếc nó đã bị thất lạc trong một trận chiến đấu. Cho nên mấy chục năm sau mới kể lại rất nhiều câu chuyện với những tình huống, chi tiết, tên người, tên đất, qua trí nhớ, quả là... kỳ tài. Nhưng cái gì khiến người ta nhớ? Cái gì nên nhớ và cái gì cần phải quên? Đó vừa là lẽ tự nhiên, vừa là kinh nghiệm sống. Tôi nghĩ, anh Đẩu nhớ nhiều, nhớ kỹ, nhớ chính xác như vậy là vì đó là những trang viết thấm máu đồng đội; những ký ức đầy hào sảng và bi thương hiện lên như những thước phim quay chậm tái hiện trong anh. Đau thì nhớ đời. Hạnh phúc thì nhớ lâu. Và nhờ trí nhớ ấy mà cuốn hồi ký có rất nhiều chi tiết, đọc là nhớ ngay, ám ảnh mãi, day dứt mãi.

Khi mới 16 tuổi, Nguyễn Mạnh Đẩu đã khai tăng hai tuổi để tình nguyện nhập ngũ vào năm 1964. Anh trốn nhà đi lính nên không có người đưa tiễn. Mẹ biết và đặt vào tay anh 7 đồng bạc trong số 12 đồng vừa bán cam, để con mang theo phòng khi... Người lính đặc công, sau này là chính trị viên đại đội từng nhiều lần đi trinh sát, giáp mặt địch, bao lần gặp nguy hiểm, chứng kiến bao đồng đội hy sinh, ôm xác đồng đội trên tay! Năm 20 tuổi, anh từng viết Di chúc, thưa với cha mẹ và người thân rằng, nếu mai con hy sinh... Rồi trong một trận chiến đấu ác liệt đã bị mảnh đạn pháo xuyên vào phổi. Chuyện người lính gan dạ, quên mình vì nhiệm vụ; chuyện người chiến sĩ ưu tú được kết nạp Đảng trong chiến hào sạm sầm khói lửa; chuyện anh chiến sĩ chui rào dây thép gai ngược khi đi trinh sát, sáng tạo ra bài học: “đuôi xuôi, đầu lọt”; chuyện cái giường của bà mẹ Oanh ở Tân Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình từng nâng giấc bao bước chân người lính qua đây... sau này có nhiều người trở thành tướng lĩnh, trong đó có Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu, Trung tướng Vũ Cao và rất nhiều chi tiết sống động khác. Chi tiết hay có khi làm nên tên tuổi nhà văn lớn. Và nhà văn phải sống thật như máu thì mới có chi tiết. Điều này, Nam Cao đã nói từ rất sớm: “Sống đã rồi hãy viết”.

2. Đọc cả hai tập sách “Những nẻo đường thời gian” và “Những vị tướng tôi được biết”, chúng ta luôn xúc động bởi nghĩa tình đồng đội, tình thương yêu con người. Chúng ta chiến thắng quân thù mạnh hơn nhiều lần về tiền của, vũ khí, là nhờ ở văn hóa Việt Nam, mà cái gần gũi nhất trong cuộc sống chiến đấu là tình nghĩa, nhận cái chết cho đồng đội sống! Người đọc rưng lệ, dừng lại ở nhiều trang viết về các liệt sĩ, gia đình liệt sĩ trong chiến tranh.

Tôi rất ấn tượng hình ảnh Trung úy Nguyễn Mạnh Đẩu sau chiến tranh, vừa điều trị khỏi bệnh, người còn gầy yếu, cơn sốt rét chưa lui hẳn, lại lọc cọc chiếc xe đạp đi khắp các vùng quê Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định... thăm gia đình đồng đội. Anh thấy những người mẹ, người cha thân thiết như cha mẹ của mình. Còn các bậc cha mẹ thì cảm thấy như con của họ trở về - những người con trẻ mãi 18 tuổi, “lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai”.

3. Chất thơ trong tác phẩm văn xuôi là ấn tượng của tôi khi đọc nhiều lần tác phẩm của Nguyễn Mạnh Đẩu. Anh là một cây bút đa dạng, viết ký chân dung, hồi ký, tiểu luận, phê bình văn học, làm thơ. Mảng nào anh cũng đã có sách. Dẫu rằng, anh khiêm tốn nói, tôi chỉ ghi chép sự kiện, ghi chép ý nghĩ chợt đến. Tôi sinh ra để làm lính, chiến trường chọn tôi, tôi không chọn con đường làm nhà văn. Nhưng ở đời, nhiều cái không chủ ý, lại thành. Tố Hữu từng nói đại ý: Cuộc sống này vốn đã đẹp, đã hay lắm rồi. Các anh cứ ghi nguyên lại thế, đừng có bịa đặt làm gì.

Chất thơ đến tự nhiên là bởi thế chăng? Thơ ở hình ảnh, hình tượng. Thơ ở nhịp điệu, ngôn ngữ câu văn. Thơ ở những câu văn kể rất kiệm lời, vị ngọt ở ngoài múi cam. Cảm xúc dồn nén, chữ như ứa ra đầu ngọn bút. Tôi xin trích vài câu để minh chứng: “Mùa mưa đầy nhựa sống”; “Đi trong rừng khộp, lá giòn bánh đa”; “Ngày thỏa sức hái măng, đêm ngủ bờ suối cạn”; “Bến nước bờ lau bồi hồi nhung nhớ”... Những câu văn tự nhiên, dung dị của một chàng trai trẻ tránh được những lời to tát, mà dư vang, mà bền bỉ.

4. Tập sách “Những vị tướng tôi từng được biết” phác thảo chân dung 15 vị tướng lừng danh, trận mạc, tài hoa. Đọc là để học. Viết cũng là để học. Chợt nghĩ, ai muốn làm tướng thì nhất định phải làm lính, lính trận hẳn hoi. Có điều kiện thì nên đọc cuốn sách này, để làm tướng. Tôi thấy hầu hết các nhân vật trong cuốn sách đều là những nhà thông thái “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, giữa hiểu lòng người”. Làm việc to mà nhẹ nhàng như mưa rơi. Nói việc nhỏ mà muôn vàn thế sự. Ấy là chỗ thành công của tác giả.

Chúng ta học được cách tư duy của các nhà tư tưởng, nhà quân sự, nhà chiến lược lừng danh Võ Nguyên Giáp, Lê Khả Phiêu, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Anh, Chu Huy Mân. Chúng ta học được phong thái đĩnh đạc, quyền biến, tỉ mỉ, rất mực đời thường của các vị tướng Trần Sâm, Đặng Vũ Hiệp, Trần Văn Quang. Chúng ta học được cách sống, lối sống giản dị, mực thước, lời thẳng thắn giữa dạ mình, không sợ hiểu sai, mất lòng đồng đội, chỉ sợ mất lòng dân, chỉ sợ chiến dịch/trận đánh thất bại. Và còn biết bao giai thoại về các vị tướng, đam mê công việc, nghệ thuật, nhưng vào trận thì xem cái chết nhẹ như một chuyến đi dài vậy. Như Tướng Hoàng Đan, cho làm một cái hầm chữ A để ông chui vào đấy, rồi cho cối, pháo... bắn thử vào hầm. Có quả đạn pháo trúng nắp hầm. Tất cả thót tim. Nhưng kìa ông đã bò ra khỏi hầm vừa cười, vừa nói: “Thấy chưa, có sao đâu!”. Đó là phẩm chất của người anh hùng: Mang đến sức mạnh, niềm tin cho mọi người trong những tình huống nghẹt thở, giữa ranh giới cái sống và cái chết.

“Hy sinh lớn cũng là hạnh phúc”. Trên hết, phẩm chất trên hết của các vị tướng trận mạc được nhà văn khái quát là hy sinh lớn! Họ hiểu “một tướng công thành vạn cốt khô”. Họ hiểu rằng, sự thiệt thòi của mình trong thời bình là không đáng gì, chớ nên so bì, tính toán thiệt hơn. Đó là lẽ sống, là đạo làm tướng.

Gấp lại những trang sách chiến tranh trong những ngày đạn khói ngút trời ở Dải Gaza, Iran, Lebanon, Israel, ở Nga, Ukraine... Máu vẫn đổ và cánh hải âu bay vẫn vấp phải những “vòm sắt”, những giới tuyến cắt chia. Càng thêm quý, thêm yêu những trang viết thấm máu người ngã xuống.

Có thể bạn quan tâm

Minh họa VĂN HỌC

Xứ nước lên

Phải rời bỏ cái chốn này khi nước lên. Hồi đó, cứ nghĩ tới những cuộc đi là Khê buồn muốn khóc.

Minh họa: VĂN HỌC

Tro bụi ngược chiều

Nắng trưa vàng như chảo mật ong tưới xuống. Nghĩa trang lớn nằm ở ngoại ô, những ngôi mộ nơi góc khuất bị cỏ dại bọc kín, bia đá lấm bụi, từng vệt bẩn kéo dài chảy xuống theo vệt nước mưa, có lẽ do cơn mưa chiều qua.

Minh họa: Nguyễn Minh

Trăng sau bão

Về đến Hoàng Phủ lúc giữa chiều, gió se sắt làm những tán cây nhuốm bùn kêu lào rào.

Minh họa của VĂN HỌC

Người đâu gặp gỡ làm chi...

Phương ngồi bên cửa sổ, lặng lẽ nhìn ánh nắng chiều dần tắt. Từ căn nhà nhỏ của cô có thể nhìn ra cánh đồng lúa chín vàng. Mùi thơm của đất trời, mùi lúa tràn về khoảng không gian tĩnh lặng, thanh bình.

Minh họa: Trần Xuân Bình

Trên những dấu thu

Nhân đẩy cánh cổng sắt bước vào khoảng sân nhỏ. Ùa vào lòng anh là hương mộc ngọt ngào làm anh nhớ lại những năm tháng êm đềm.

Minh họa: Trần Xuân Bình

Cơm đục

Những hạt cát mà anh đã lén trộn trong chén cơm năm đó, chắc bà già mù không nhớ đâu. Nội nói khi người hóa khói, nhẹ tênh một đời, không còn gì để nhớ thương hay oán giận. Cứ vậy mà tan.

Minh họa của Văn Học

Màu hoa tím trong mưa

Thành phố đã mưa suốt hai tuần không dứt. Những sợi tơ mảnh nối nhau tuôn xuống từ trời rồi hợp thành dòng chảy miên man qua từng con ngõ nhỏ. Hơi ẩm bám vào tường làm dãy nhà tập thể tróc vữa già thêm mấy chục năm. Âm thanh rả rích len vào giấc ngủ nghe buồn như tiếng khóc.

Bìa tập thơ "Hoa nắng".

Hương sắc và ánh sáng từ "Hoa nắng"

Vào dịp Kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, 80 năm Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, NXB Hội Nhà văn chọn in tuyển tập thơ của nhà báo, nhà thơ Hồng Vinh, khẳng định sự đóng góp của ông trên lĩnh vực báo chí và văn học, tôn vinh một nhà báo cách mạng có ảnh hưởng xã hội xuyên suốt hai thế kỷ.

Minh họa của NGUYỄN MINH

Bình minh mang màu ký ức

Bình minh nhuộm vàng lòng chảo, nhuộm cánh đồng lúa chín và những dãy núi xa. Cánh đồng Mường Thanh, nơi tôi chiến đấu, ở lại và sống trọn đời người. Đời người ngắn hay dài, dòng Nậm Rốm hiểu rõ.

Minh họa: Nguyễn Minh

Qua mùa nước cạn

Nắng sồng sộc phả lên mặt người. Nóng bỏng rát lên từng thớ da. Đất nung lên chân, xuyên qua gót nứt nẻ, đi một bước đã thấy bưng bức.

Minh họa: Nguyễn Minh

Lời biển

Biển đón tôi bằng tiếng sóng dịu êm. Biển mênh mông bình yên đã dưỡng nuôi làng chài, để tôi và số ít trai gái có thể đi xa hơn.

Minh họa: Nguyễn Minh

Nài ngựa

Bây giờ khi đã lớn khôn, xa ký ức quê hương một quãng dài cả về thời gian và khoảng cách, nhưng mỗi lần nhìn cỗ xe ngựa đậu trong viện bảo tàng hay những khu du lịch sinh thái miệt vườn, là lòng tôi lại dâng lên cảm giác thân thương, thắm thiết.

Minh họa: Chu Văn

Vì một lời hứa nhỏ

Chỉ thiếu nửa điểm nữa thôi là tôi đã đạt điểm tuyệt đối ở cả ba môn thi đại học. Nhưng điều đó không khiến tôi bất ngờ.

Minh họa: NGUYỄN MINH

Giờ đẹp

Sáng nay, thời tiết bình thường, trời không nắng, chẳng mưa, chỉ hơi ưng ửng vàng, gió thổi nhẹ. Nghe nói, mấy ngày tới sẽ có đợt áp thấp.

Minh họa: NGUYỄN MINH

Kho báu

Trong thung lũng khuất sâu, bị nuốt chửng bởi những đỉnh núi Đá Đen sừng sững, có một ngôi làng nhỏ mang tên Thanh Bình. Thế nhưng, mấy năm qua, những người dân nơi đây lại chưa bao giờ được hưởng trọn vẹn hai chữ ấy. Hạn hán kéo dài như một lời nguyền tàn độc bủa vây.

Minh họa: NGUYỄN MINH

Miền chân sóng xôn xao

Chiều nhẹ. Nắng mỏng như tờ giấy. Sóng ập òa bình yên. Bọn trẻ rộn rã nói cười. Tất cả im lặng khi anh dõng dạc hướng dẫn bài vẽ sóng. Anh bảo bọn trẻ tả sóng, nhưng phải theo cách nghĩ của mình. Thương im lặng.

Minh họa: Nguyễn Minh

Những cái cây trong thành phố

Nhi ngồi làm việc cạnh một ô cửa bằng kính chẳng bao giờ mở. Cái chốt cửa bằng sắt hoen gỉ nằm im trong bức tường đầy hơi máy lạnh.

Minh họa: NGUYỄN MINH

Phía trăng lên

Thức liên tục gắp thức ăn cho mẹ. Sự cố gắng của con trai cả khiến bà Mai thấy thương. Bà biết, con dâu chẳng ưa gì mình, còn Thức cố xóa nhòa khoảng cách mẹ chồng, nàng dâu.
Minh họa: DƯƠNG ĐÍNH

Mầm xanh ký ức

Xuồng vừa chạm bến thì tiếng đạn bất ngờ nổ rền như sấm xé tan màn đêm. Địch phục kích! Lửa lóe sáng giữa bóng tối, tiếng súng rát tai dội vang cả khúc sông. Nhóm người vội tản ra, người lao lên bờ, người len qua cầu khỉ, người lặn mình vào lùm cây tối sẫm.
Minh họa: Nguyễn Minh

Về may áo lụa

Trăng trải thành thảm vàng, bao phủ cả làng mạc, bãi dâu. Anh hòa mình vào ánh trăng với ngàn ngạt hương dâu, như sợ nay mai vùng Ngàn Hương sẽ bị cày xới.
Minh họa: Nguyễn Minh

Mùa hoa đã cũ

Góc phố có cây lan hoàng dương. Mùa xuân, hoa rủ xuống từng chùm rực rỡ.
Minh họa: THU HÀ

Mùa rưng rức đỏ

Khi ông về đến thành phố đã là giữa đêm. Gió tháng ba hấp lên da thịt ông cái nóng còn sót lại của ngày.
Minh họa: Thu Hà

Ngang một bến sông

Nước dâng lên rờn rợn. Gió xốn xang như nỗi niềm của con sông gác mặt mình trong năm tháng. Lão Mậu đưa thuyền vào sát bờ, tắt máy. 
Minh họa: THU HÀ

Mùa hoa nở muộn

Trời có ấm hơn. Những hạt mưa bụi lất phất bay, như chiếc sàng rây lớp bột mịn bám lên mái nhà, bờ hiên, khoảng sân và mọi thứ không được che chắn. Trên cành hoa hồng, hạt mưa đọng lại trên chiếc lá xanh nhỏ xíu, tụ thành giọt nước tròn đầy, trĩu nặng, uốn cong sợi gân lá rồi lặng lẽ rơi xuống lớp đất mềm ẩm bên dưới.
Lời ong bướm

Lời ong bướm

Chợ Hợp Thành một tháng bốn phiên. Sáng mai là phiên ngày hăm ba, còn một phiên ngày ba mươi nữa thôi là hết tháng giêng rồi.