Lâm nghiệp, nền tảng vững chắc cho an ninh sinh thái và tăng trưởng xanh

Giai đoạn 2021-2025, ngành lâm nghiệp đã hình thành nền tảng vững chắc cho an ninh sinh thái và tăng trưởng xanh, với tỷ lệ che phủ rừng duy trì 42,03%, kinh tế dưới tán rừng khởi sắc và thị trường carbon lần đầu tạo nguồn thu hàng chục triệu USD, khẳng định vai trò trụ cột của lâm nghiệp trong mục tiêu phát triển bền vững.

Mùa xuân là Tết trồng cây.
Mùa xuân là Tết trồng cây.

Triển khai đồng bộ, kết quả nổi bật trong quản lý và phát triển rừng

Giai đoạn 2021-2025 đánh dấu bước chuyển quan trọng của ngành lâm nghiệp khi Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm đồng loạt triển khai nhiều nhiệm vụ chiến lược. Việc hoàn thiện thể chế, tổ chức thực thi và kiểm tra giám sát được triển khai sâu rộng từ Trung ương đến địa phương.

Theo ông Phạm Hồng Lượng, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), kết quả lớn nhất của giai đoạn này là Việt Nam duy trì được tỷ lệ che phủ rừng ở mức 42,03%, cao hơn nhiều so mức bình quân thế giới 32%. Tổng diện tích rừng đạt 14,87 triệu ha, trong đó rừng tự nhiên hơn 10,1 triệu ha và rừng trồng 4,7 triệu ha. Việt Nam cũng đã thiết lập hệ thống quản lý rừng đặc dụng với 167 khu, gồm 35 vườn quốc gia.

“Những đóng góp này khẳng định vai trò then chốt của ngành lâm nghiệp đối với an ninh sinh thái, phòng chống thiên tai, bảo vệ đất và ổn định môi trường, đồng thời tạo nền tảng phát triển kinh tế dưới tán rừng”, ông Lượng nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ mới như cảm biến giám sát rừng, hệ thống camera bay, tuần tra số hóa, bản đồ cảnh báo sớm cháy rừng… đã giúp tăng hiệu quả bảo vệ rừng và giảm đáng kể vi phạm. Công tác trồng rừng, phục hồi rừng cũng đạt kết quả tốt, với diện tích rừng trồng mới hằng năm vượt kế hoạch 4 đến 6%.

Kinh tế lâm nghiệp: Động lực tăng trưởng mới của ngành nông nghiệp

Song song với nhiệm vụ bảo vệ rừng, kinh tế lâm nghiệp ngày càng chứng minh vai trò động lực trong tăng trưởng nông nghiệp và kinh tế xanh.

z7261492718531-7d2173046538714ebb17bbaf60bd4080-2469.jpg
Rừng Nam Kar, một khu rừng đặc dụng ở tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh: KIẾN GIANG)

Ông Phạm Hồng Lượng cho biết: “Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu lâm sản đạt 17,35 tỷ USD, chiếm gần một phần ba tổng giá trị xuất khẩu toàn ngành. Ngành chế biến gỗ hình thành chuỗi liên kết từ trồng rừng-khai thác-chế biến-xuất khẩu, tạo hàng triệu việc làm và đóng góp lớn cho nền kinh tế”.

Kinh tế dưới tán rừng tại các địa phương cũng phát triển mạnh: du lịch sinh thái, nuôi trồng dược liệu, dịch vụ môi trường rừng… tạo thêm nguồn thu ổn định cho người dân sống gần rừng.

Đặc biệt, cơ chế tài chính mới, thị trường carbon rừng đã mở ra hướng đi chưa từng có. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực thực hiện trao đổi, chuyển nhượng kết quả giảm phát thải (tín chỉ carbon rừng). Ông Lượng cho biết, chỉ riêng giai đoạn gần đây, ngành đã thu về 56,5 triệu USD, từ việc chuyển nhượng 11,3 triệu tấn carbon rừng tại các tỉnh Bắc Trung Bộ.

“Ngành lâm nghiệp là ngành phát thải âm, hấp thụ nhiều hơn phát thải. Đây là lợi thế rất lớn để Việt Nam tham gia sâu vào các sáng kiến tài chính khí hậu toàn cầu”, ông Lượng nói.

Nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng và tín chỉ carbon mang lại khoảng 3.500 đến 3.700 tỷ đồng mỗi năm, góp phần cải thiện sinh kế cho hơn 500.000 chủ rừng, hộ gia đình cá nhân tại các khu vực được hưởng lợi.

z7264612784399-a34092d66f201c531100cf6ad9bda456.jpg
Ông Phạm Hồng Lượng, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), trong chuyến đi hiện trường rừng khu vực phía nam.

Hướng tới giai đoạn mới: Hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh chuyển đổi số và tăng sinh kế cộng đồng

Để tiếp tục phát triển lâm nghiệp bền vững, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm xác định 3 nhóm nhiệm vụ trọng tâm:

Hoàn thiện thể chế, cơ chế tài chính: ngành đang khẩn trương xây dựng Nghị định về thị trường carbon, sửa đổi các quy định liên quan đến quản lý rừng, đầu tư lâm nghiệp, khai thác-sản xuất-chế biến để phù hợp với bối cảnh mới. Các cơ chế tài chính mới như Dịch vụ môi trường rừng (DVMTR), tín chỉ carbon, đầu tư theo chuỗi giá trị sẽ tiếp tục được mở rộng.

Đẩy mạnh khoa học công nghệ và chuyển đổi số: ngành tập trung ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo trong theo dõi rừng; mở rộng “rừng thông minh” thông qua giám sát tự động; nghiên cứu giống cây năng suất cao; áp dụng công nghệ sinh học trong ươm giống, phục hồi rừng tự nhiên.

Tăng cường vai trò cộng đồng và bảo đảm sinh kế. Theo ông Lượng, chỉ khi người dân có sinh kế bền vững thì việc bảo vệ rừng mới có hiệu quả. Giảm nghèo, tăng thu nhập từ rừng sẽ giảm áp lực xâm hại rừng.

Ngành đang tiếp tục thúc đẩy giao rừng, khoán bảo vệ rừng, liên kết doanh nghiệp-cộng đồng, phát triển kinh tế dưới tán rừng và mở rộng các mô hình hợp tác xã lâm nghiệp.

Bên cạnh Bắc Trung Bộ, Việt Nam đang đàm phán mở rộng thị trường carbon rừng sang Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, tạo dư địa lớn cho tăng trưởng xanh.

Việc tổ chức triển khai Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2021-2025 cho thấy ngành lâm nghiệp đã và đang đóng vai trò trung tâm trong bảo vệ môi trường, giữ vững an ninh sinh thái, đồng thời trở thành một lĩnh vực kinh tế mang lại giá trị cao. Những kết quả về che phủ rừng, kinh tế lâm nghiệp, thị trường carbon và sinh kế cộng đồng khẳng định hướng đi đúng đắn.

Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng nỗ lực của Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, ngành lâm nghiệp Việt Nam đang tiến gần hơn tới mục tiêu trở thành ngành kinh tế kỹ thuật hiện đại, hiệu quả và bền vững, góp phần thực hiện mục tiêu giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Có thể bạn quan tâm

Tổng công ty Xây dựng Lũng Lô thi công rà phá bom mìn, vật nổ trên tuyến biên giới Việt Nam-Trung Quốc.

Hồi sinh những vùng đất ô nhiễm bom mìn

Nửa thế kỷ sau chiến tranh, bom mìn và vật nổ vẫn nằm lại trong lòng đất là mối đe dọa thường trực cho hàng triệu người dân. Với nỗ lực của Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Trung tâm Hành động bom mìn quốc gia Việt Nam cùng sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, công cuộc làm sạch đất ô nhiễm đang từng bước mang lại những đổi thay rõ rệt.

“Màn sương” bụi mịn độc hại bao phủ Hà Nội những ngày qua. (Ảnh MAI MAI)

Xử lý nguồn gây ô nhiễm không khí tại Hà Nội

Những tháng cuối năm, Thủ đô Hà Nội luôn ô nhiễm không khí nghiêm trọng. Tại các thời điểm đo, chỉ số chất lượng không khí (AQI) luôn ở mức báo động đỏ. Theo thống kê hằng năm của Cổng thông tin quan trắc môi trường (CEM.ORG.VN), không khí Hà Nội nằm trong top 10 thành phố trên thế giới về mức độ ô nhiễm.

Nhân viên lấy dữ liệu tại Trạm Khí tượng thủy văn Sa Pa, tỉnh Lào Cai. (Ảnh TRỌNG TÙNG)

Ứng dụng công nghệ trong dự báo, cảnh báo sớm thiên tai

Năm 2025 được đánh giá là một năm hứng chịu nhiều đợt thiên tai kỷ lục của nước ta từ trước đến nay. Chính vì vậy, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật để xây dựng cụ thể các mô phỏng cảnh báo từ sớm, từ xa đang là vấn đề được quan tâm nhằm nâng cao năng lực dự báo thiên tai.

Hệ thống phòng thủ chống lũ của Hà Lan và bài học cho Việt Nam.

Hệ thống phòng thủ chống lũ của Hà Lan và bài học cho Việt Nam

Lũ lụt tháng 11/2025 chỉ là một phần của các nguy cơ từ biến đổi khí hậu cực đoan ở Việt Nam. Câu chuyện về hành trình chống chọi với lũ lụt của Hà Lan, từ những thảm họa lịch sử đến các giải pháp kỹ thuật cụ thể, đang trở thành mô hình tham khảo thiết thực cho Việt Nam trong việc quản lý rủi ro dài hạn.

Trụ sở Tập đoàn Viettel là một trong số ít toà nhà ở Việt Nam đăng ký để nhận được chứng chỉ xanh.

Bộ Xây dựng ban hành Kế hoạch hành động bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia

Thực hiện Nghị quyết 70-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết 328/NQ-CP của Chính phủ, Bộ Xây dựng ban hành Kế hoạch hành động cụ thể hóa các nhiệm vụ trọng tâm đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Kế hoạch tập trung tích hợp phát triển năng lượng vào quy hoạch đô thị-nông thôn, khuyến khích điện mặt trời, chuyển đổi năng lượng xanh.

(Ảnh minh họa)

Cảnh báo lũ quét, sạt lở tại các tỉnh, thành phố từ Huế đến Lâm Đồng do mưa lớn diện rộng

Dự báo, trưa và chiều nay (4/12), khu vực các tỉnh, thành phố từ Huế đến Lâm Đồng tiếp tục có mưa to đến rất to. Cơ quan khí tượng cảnh báo, người dân và chính quyền các địa phương trên cần chuẩn bị các phương án ứng phó nguy cơ lũ quét, sạt lở đất tại nhiều xã, phường do mưa lớn diện rộng.