Khúc tráng ca của người chiến sĩ áo trắng

Tháng tư, Hà Nội trong vắt như một khúc tưởng niệm yên bình. Tôi gặp PGS, TS Nguyễn Văn Kình, Trưởng Ban liên lạc Ban Dân y miền nam khu vực miền bắc ngay sau chuyến trở về chiến trường xưa ở Tây Ninh nhân dịp 30/4. Ông từng là chiến sĩ dân y trên tuyến lửa miền đông nam bộ.

PGS, TS Nguyễn Văn Kình trong chiến trường miền nam năm 1969.
PGS, TS Nguyễn Văn Kình trong chiến trường miền nam năm 1969.

Giờ đây giữa căn phòng nhỏ trên phố Hàng Bè, bên cạnh chiếc cặp lồng móp méo và đèn dầu ống nghiệm năm nào, ông kể lại một thời ra trận hào hùng bằng y thuật và cả lòng nhân ái.

Ra trận không mang súng

Ngay từ đầu những năm 1960, khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam được thành lập, Trung ương Đảng và Chính phủ đã xác định: Muốn chiến trường miền nam trụ vững, không thể chỉ dựa vào súng đạn. Phải có hệ thống y tế để giữ mạch sống cho chiến sĩ và nhân dân giữa rừng sâu khói lửa. Từ tầm nhìn chiến lược ấy, Ban Dân y miền nam ra đời như một động mạch chủ của kháng chiến, nối từ hậu phương ra tiền tuyến bằng tri thức, y thuật và tình người.

Hàng trăm cán bộ, sinh viên ngành y miền bắc đã viết đơn tình nguyện vào chiến trường. Có người viết đơn bằng máu. Có người ra đi không kịp một lời từ biệt, bước vào cuộc chiến để giữ lại từng hơi thở trong bom đạn. Ông Nguyễn Văn Kình khi đó đang là kĩ sư trẻ ngành hóa sinh-dịch tễ, Viện Kiểm nghiệm Bộ Y tế. Không một phút đắn đo, viết đơn bằng máu, ông xung phong vào chiến trường bởi “đất nước đang cần”.

Trước khi vào chiến trường, ông được tham gia huấn luyện ba tháng ở Hòa Bình. Thử sức gùi gạch, ăn bo bo, học cách chống sốt rét, hành quân giả lập, sống trong hầm như giữa rừng. Sau đó là hành trình gần một tháng xuyên Trường Sơn, vượt suối, băng rừng qua Lào, Campuchia. Đoàn đi né biệt kích, tránh thám báo, hành quân không để lại một dấu vết. Nhiều người đã ngã xuống ngay trên đường hành quân, không kịp đặt chân tới miền nam. Những người còn sống như ông thêm quyết tâm hành quân để tiếp tục thực hiện khát vọng hòa bình còn dang dở của những người đã ngã xuống.

Khi vào đến căn cứ Trung ương Cục miền nam, ông được phân công về bộ phận dịch tễ, nghiên cứu phòng bệnh, điều chế vaccine. Dù nhiệm vụ ít tiếng vang nhưng có ý nghĩa sống còn trong việc bảo vệ sức khỏe quân dân ta. Không phòng thí nghiệm, không thiết bị, không điện, ông cùng đồng đội chế đèn từ vỏ ống nghiệm, đốt nhựa cây làm nhiên liệu, soi mẫu bệnh dưới ánh sáng leo lét để truy tìm mầm bệnh. Khi dịch thủy đậu bùng phát, không có vaccine sẵn, ông đã tự điều chế, rồi tiêm thử nghiệm lên chính mình trước khi tiêm cho đồng đội và người dân.

“Nếu tôi không dám thử, sao có thể tiêm cho đồng đội?” ông kể. Có lần, khi mang vaccine qua suối, địch phục kích sát bờ bên kia. Ông và đồng đội phải nằm im hàng giờ, ôm vaccine trên lưng, không nhúc nhích. Ngoài nghiên cứu, ông còn cùng bác sĩ mổ tại chỗ, tải thương. Có đêm mổ ba ca liền, kiệt sức gục ngay bên bàn mổ, mặt dính máu, tay vẫn nắm chặt băng gạc. “Còn thở là còn cứu người”, bác sĩ Kình tâm niệm.

PGS, TS Nguyễn Văn Kình (ở giữa) trong chuyến về thăm Khu di tích căn cứ Trung ương Cục miền nam (Tây Ninh).
PGS, TS Nguyễn Văn Kình (ở giữa) trong chuyến về thăm Khu di tích căn cứ Trung ương Cục miền nam (Tây Ninh).

Kể về những lớp học y giữa rừng, bác sĩ Kình cho biết, bảng là tấm ván, ghế là khúc gỗ, học viên là dân công, giao liên, người bản địa. Bài giảng là ca mổ sáng nay, thực hành là cấp cứu tối nay. Ông dạy về y học, về phòng dịch, dạy cách nhìn màu da nhận biết sốt rét, dạy điều chế thuốc bằng nguyên liệu rừng. Không ai hỏi nhau bằng cấp. Chỉ cần có đôi tay đầy trách nhiệm và một trái tim còn rung động trước sự sống. “Chúng tôi vừa dạy, vừa hành quân, vừa cứu thương, vừa nghiên cứu. Có khi máu chưa kịp khô trên áo, đã lại lên đường”, ông kể.

Chiến thắng bằng lòng bao dung

Ngày 30/4/1975, bác sĩ Nguyễn Văn Kình cùng đoàn dân y từ rừng Tây Ninh tiến về Sài Gòn. Không quân phục, không cờ hoa, chỉ có chiếc túi thuốc, vài mẫu vắc xin và đôi bàn tay chai sạm vì chiến tranh. Gặp một cụ bà bị đạn lạc, ông băng bó cho cụ. Cụ nắm tay, hỏi khẽ: “Hòa bình rồi hả chú?” Ông gật đầu. Nước mắt rơi trên tay người mẹ già. Ông nói, “Đó không phải khoảnh khắc của chiến thắng mà là khoảnh khắc của sự sống được gìn giữ đến phút cuối cùng”.

PGS, TS Nguyễn Văn Kình (ở giữa) trong chuyến về thăm Khu di tích căn cứ Trung ương Cục miền nam (Tây Ninh).
PGS, TS Nguyễn Văn Kình (ở giữa) trong chuyến về thăm Khu di tích căn cứ Trung ương Cục miền nam (Tây Ninh).

Sau ngày đất nước thống nhất, khi nhiều cán bộ trở ra bắc, ông xin ở lại. Lúc ấy, ông là Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Ban Dân y miền nam, được giao làm Phó ban quân quản Viện Pasteur Sài Gòn - nơi từng là trung tâm y học dự phòng lớn nhất của chế độ cũ. Tại đây, ông không chỉ tiếp quản thiết bị, hồ sơ, mà cả những cái bắt tay ngập ngừng của những trí thức cũ đang lo sợ bị sa thải, bị trả thù, bị lãng quên. Nhưng ông không ra lệnh. Ông đến từng phòng, hỏi từng người: “Tôi không hỏi anh từng đứng ở đâu. Tôi chỉ hỏi anh còn muốn cứu người không?” Một giáo sư từng là cố vấn y tế chính phủ Sài Gòn, sau một phút lặng im, đã gật đầu. Và ông biết mình vừa thắng thêm một trận bằng lòng tin.

Từ đó, ông và các đồng đội bắt đầu giữ chân từng bác sĩ, từng kỹ thuật viên, từng đôi tay biết cứu người. Không ai bị loại bỏ. Không ai bị phán xét. Ông cùng ngành y tế thành phố tái thiết hệ thống, mở trường trung cấp y, lập trạm y tế liên xã, đào tạo y tá, đưa y tế đến tận vùng sâu. “Cách mạng không thể thắng bằng chia rẽ. Phải thắng bằng bao dung. Nếu dân còn bệnh, thì hòa bình ấy chưa trọn vẹn”, bác sĩ Nguyễn Văn Kình tâm niệm.

Năm 1975, ông là Chủ nhiệm khoa Hóa sinh kiêm Trưởng liên khối Hóa Dược Viện Pasteur Sài Gòn. Sau khi ra bắc, ông tiếp tục học tập, giảng dạy, nghiên cứu. Năm 2010, ông là người sáng lập ngành Gene trị liệu tại Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Y học tự nhiên Việt Nam, nay là cố vấn cao cấp Trung tâm Gene trị liệu Bệnh viện Bạch Mai. Ông là tác giả của hàng chục công trình chuyên khảo, trong đó có cuốn Sinh học Phân tử Ung thư (NXB Y học, 2015), được trưng bày trang trọng tại Bảo tàng Ban Dân Y miền Nam. Trong đại dịch Covid-19, ông còn là gương mặt quen thuộc trên truyền hình với nhiều video hướng dẫn ứng phó dịch bệnh. Ông cũng là tác giả nhiều sản phẩm chăm sóc sức khỏe có nguồn gốc từ thiên nhiên.

Tháng 4 vừa qua, ông trở lại chiến trường xưa cùng đồng đội. Nửa thế kỷ đã trôi qua, người trẻ nhất trong đoàn cũng đã ngoài 70. Những người từng là trai tráng nay tóc bạc, mắt mờ, chân chậm. Nhưng gặp nhau, họ vẫn ôm chặt, hỏi thăm gia đình, con cháu. Nhắc lại những chuyện xưa, vừa cười vừa rưng rưng. Nhiều người đã không còn. Nhưng giữa buổi lễ, một câu nói vang lên khiến tất cả lặng người rồi cùng mỉm cười: “Chúng ta sẽ gặp lại nhau vào dịp kỷ niệm 100 năm giải phóng miền nam nhé!”

Ông dừng lời, ánh mắt rưng rưng. Đưa tôi xem bức ảnh chụp cùng đồng đội trong chuyến trở về chiến trường xưa, ông bảo: “Hàng trăm sinh viên, cán bộ miền Bắc ra trận năm ấy, giờ còn lại chẳng bao nhiêu. Nhưng chúng tôi tự hào vì đã tham gia một trận đánh không cần đến súng mà vẫn chiến thắng bằng lòng tin và ngọn lửa y đức được giữ vững trong thời khắc gian khó nhất của dân tộc”.

Có thể bạn quan tâm

Nữ Đội trưởng Đội du kích Củ Chi với cánh tay không còn lành lặn. (Ảnh nhân vật cung cấp)

Nữ du kích vùng Đất thép thành đồng

Tôi gặp cô Sáu Trong vào một chiều mưa Hà Nội. Cô có làn da sạm nắng cùng mái tóc pha sương nhuốm màu thời gian. Đôi mắt cô hiền hòa nhưng sáng nét kiên định, sắc bén của người chiến sĩ cộng sản một thời vào sinh, ra tử trên chiến trường lửa đạn. Cô là Dũng sĩ diệt Mỹ, Đội trưởng Đội du kích Củ Chi, vùng Đất thép thành đồng.

Những cầu thủ đầu tiên của Thể Công. (Ảnh: Tư liệu)

Bóng đá ở miền bắc 1954-1975: Giữa lửa đạn chiến tranh, song hành công cuộc kiến quốc

Giữa khói lửa chiến tranh và hành trình xây dựng đất nước, bóng đá ở miền bắc giai đoạn 1954-1975 vẫn âm thầm phát triển và lan tỏa. Không chỉ là môn thể thao được yêu thích, bóng đá còn trở thành công cụ phục vụ cách mạng, nâng cao đời sống tinh thần và gắn kết cộng đồng trong những năm tháng đầy gian khó.

Một chút ký ức thời làm báo ở rừng

Một chút ký ức thời làm báo ở rừng

Trong hồi ức của nhà văn Lê Quang Trang, công việc của người làm báo Văn nghệ giải phóng vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa có cái gian lao cực khổ của đời sống chiến trường, nhưng lại có sự hấp dẫn của phiêu lãng, tích cực của rèn luyện phẩm chất, sâu bền của tích lũy vốn sống.

Mô hình Địa đạo Củ Chi của nhóm học sinh Trường THCS Cầu Giấy (Hà Nội). (Ảnh LÊ DUY)

Từ di tích lịch sử đến những bài học sinh động

Địa đạo Củ Chi, một biểu tượng của sức mạnh Việt Nam trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều sáng kiến độc đáo. Từ mô hình học tập ứng dụng liên môn (STEM) đến “bảo tàng ảo” trong trò chơi điện tử trực tuyến (game online), thế hệ trẻ đang tiếp nối truyền thống và lòng tự hào dân tộc theo cách của thời đại mình.
Những đứa trẻ đội mũ rơm tới trường

Những đứa trẻ đội mũ rơm tới trường

Có một thời mà biết bao gia đình Việt Nam phải chịu cảnh ly tán. Một thời bom Mỹ trút trên mái nhà. Một thời mà những đứa trẻ đầu đội mũ rơm, lưng đeo vòng lá “ngụy trang”, men theo giao thông hào để đến trường. Tuổi thơ của họ gắn chặt với những lớp học trong bom đạn, sống xa cha mẹ và tập quen với việc tự lập. Họ là thế hệ lớn lên từ những ngày sơ tán…
Biệt động Sài Gòn – Lực lượng vũ trang đặc biệt

Biệt động Sài Gòn – Lực lượng vũ trang đặc biệt

Biệt động Sài Gòn là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, có lối đánh độc đáo, thích hợp đạt hiệu quả cao, gây tác động mạnh quân địch và có tiếng vang lớn cổ vũ khí thế chiến đấu của quân, dân thành phố và cả nước. Trong đó, cuộc tấn công vào các mục tiêu Tết Mậu Thân là đỉnh cao của lực lượng biệt động về nghệ thuật tổ chức chỉ huy, hợp đồng chiến đấu và tinh thần dũng cảm tuyệt vời của các chiến đấu viên.
Hồi ức của một nhà giáo đi B

Hồi ức của một nhà giáo đi B

Dài dọc con đường Trường Sơn không chỉ có hình bóng của những người lính Cụ Hồ, chặng đường ấy còn hằn in dấu chân của hàng nghìn nhà giáo ngày đêm hành quân từ miền bắc vào chi viện cho chiến trường miền nam thân yêu. 

Nữ biệt động 16 tuổi và chuyện dũng cảm pháo kích vào Sở Chỉ huy của tướng Mỹ

Nữ biệt động 16 tuổi và chuyện dũng cảm pháo kích vào Sở Chỉ huy của tướng Mỹ

Nhỏ tuổi nhưng ý chí không nhỏ, 16 tuổi, nữ chiến sĩ biệt động Nguyễn Thị Bích Nga đã trực tiếp tham gia pháo kích vào trụ sở của Tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở Việt Nam ngay tại Sài Gòn. 17 tuổi bị bắt vào tù, trải qua nhiều nhà giam của địch, bà vẫn kiên cường giữ vững ý chí cách mạng, không khuất phục trước mọi đòn tra tấn của địch.
Ký ức về Chiến thắng 30/4 trong lòng Việt kiều Pháp

Ký ức về Chiến thắng 30/4 trong lòng Việt kiều Pháp

Ngày 30/4/1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước - niềm vui vỡ òa, những giọt nước mắt sung sướng, những lời chúc mừng của bạn bè Pháp… đó là những kỷ niệm không bao giờ quên của các bác Việt kiều tại Pháp chia sẻ cùng nhân kỷ niệm 40 năm Ngày miền nam hoàn toàn giải phóng.
Con trai nhà thầu khoán Mai Hồng Quế: “Tôi muốn trả cho ba sự thật về cuộc đời ông”

Con trai nhà thầu khoán Mai Hồng Quế: “Tôi muốn trả cho ba sự thật về cuộc đời ông”

Tự nhận mình là đứa con ngỗ nghịch nhất nhà, chỉ dám nhìn ba mình - Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Trần Văn Lai (nhà thầu khoán Dinh Độc Lập Mai Hồng Quế) từ xa, nhưng những gì mà anh Trần Vũ Bình đã và đang làm, lại rất đặc biệt với tâm nguyện: “muốn trả cho ba sự thật về cuộc đời ông”.
Những người bạn Pháp gắn bó với Việt Nam và các thế hệ Việt kiều cùng ôn lại những năm tháng hết lòng đấu tranh vì độc lập và hòa bình cho Việt Nam.

Bí thư toàn quốc PCF: Việt Nam sẽ tiếp tục lập kỳ tích trong kỷ nguyên vươn mình

Tối 29/4, phát biểu tại Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025) được tổ chức long trọng tại Trụ sở Đảng Cộng sản Pháp ở Paris, Bí thư toàn quốc Fabien Roussel nhấn mạnh, 50 năm qua dân tộc Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, thật sự là một kỳ tích và sẽ tiếp tục lập kỳ tích mới trong kỷ nguyên vươn mình.

Ký ức ngày 30/4/1975

Ký ức ngày 30/4/1975

Trong thời khắc lịch sử của 50 năm về trước, khi miền nam hoàn toàn giải phóng, nhiều người đã trào dâng nước mắt khi lần đầu tiên thấy thành phố Sài Gòn im tiếng súng, không còn bom đạn, đau thương… Dù nửa thế kỷ đã qua đi, nhiều người vẫn không giấu được niềm xúc động khi hồi tưởng lại khoảnh khắc đó.
Nguyên Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa và chuyện những người tù cách mạng nhường nhau tất cả, chỉ “giành” khó khăn về mình

Nguyên Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa và chuyện những người tù cách mạng nhường nhau tất cả, chỉ “giành” khó khăn về mình

Trong không khí náo nức hướng về dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, chúng tôi may mắn được gặp gỡ bà Trương Mỹ Hoa - nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước, lắng nghe bà trò chuyện về những hồi ức của những ngày tham gia cách mạng. Bà là một nữ cựu tù chính trị Côn Đảo, một nhân chứng lịch sử góp mặt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hào hùng của dân tộc.
Theo dấu chân "Biệt động Sài Gòn": Căn hầm bí mật giữa trung tâm đô thị Sài Gòn

Theo dấu chân "Biệt động Sài Gòn": Căn hầm bí mật giữa trung tâm đô thị Sài Gòn

Cách đây gần 60 năm, một căn hầm bí mật đã được xây dựng ngay giữa những con phố sầm uất của trung tâm Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Bên dưới nền gạch hoa đỏ trắng đan xen của ngôi nhà nhỏ tại địa chỉ 287/70 Nguyễn Đình Chiểu, lực lượng Biệt động Sài Gòn-Gia Định đã âm thầm cất giữ hơn 2 tấn vũ khí phục vụ tấn công Dinh Độc Lập (nay là Dinh Thống Nhất) và một số cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam cộng hòa trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, nơi đây đã trở thành một "địa chỉ đỏ" của thành phố, nơi lịch sử được kể lại bằng những vật chứng sống động và những ký ức vẹn nguyên.
Người dẫn quân Cách mạng vào thành Huế trong chiến thắng năm 1975

Người dẫn quân Cách mạng vào thành Huế trong chiến thắng năm 1975

Năm 1983, loạt phim tài liệu “Việt Nam, thiên lịch sử truyền hình” của Đài truyền hình NBC phát sóng tại Mỹ thu hút số lượng người xem cao nhất lúc bấy giờ. Trong phim có cảnh quay ngắn về một thanh niên chạy xe máy, chở người lính cầm cờ giải phóng, dẫn đầu đoàn quân Cách mạng tiến vào cửa An Hòa đúng ngày giải phóng TP Huế.