Chuyến đò đêm xuân

Chàng mê đàn sách từ nhỏ và mỗi khi đọc sách, chơi đàn chàng lại nghe văng vẳng tiếng ông bà kể về một làng quê nơi xa lắc nơi sương mờ bao phủ và tiếng hò da diết khôn nguôi. “Sau này lớn khôn con hãy tìm về làng ta con nhé” - Bà thường dặn như thế.
Minh họa | PHẠM HÀ HẢI
Minh họa | PHẠM HÀ HẢI

Như mọi đứa trẻ, chàng lớn lên với một làng quê trong tâm hồn mình, chỉ có điều làng quê của chàng chỉ nằm trong các câu chuyện, lời ca, trong trí tưởng tượng. Làng quê ấy, rất xa xôi mà biết bao gần gụi. Nơi ấy, tổ tiên vất vả xông pha lập làng dựng miếu. Nơi ấy, vẫn chờ đợi ai trở về như tương lai chờ đợi quá khứ hay quá khứ ngóng đợi tương lai? Và rồi, liệu có ai sẽ nhận ra chàng, đứa nhỏ xa làng từ khi còn trong bụng mẹ? Mà rồi biết bao thăng trầm và bươn chải, có khi nào anh về lại làng xưa?

Cuộc kháng chiến trường kỳ và tóc bà từ xanh mướt đã thành bạc trắng tuyết sương. Những lá thư được gửi trong chiến tranh dường như thật khó tìm được người nhận nên mọi thông tin về làng thật ít ỏi và mơ hồ. Rằng mọi người trong ấy vẫn khỏe, rằng O ở miền bắc khi nào vào lại làng ta? Rằng những đứa nhỏ đã lớn lên dựng vợ gả chồng. Lại có mấy đứa ra tập kết đã tìm gặp được O chưa?

Anh của chàng rời làng đi kháng chiến. Quanh làng biết bao nhiêu đồn bốt. Mỗi bước đi chìm trong lửa đạn quân thù. Khi ra tới miền bắc, anh mang trên mình bao nhiêu là mảnh đạn. Nào có dòng địa chỉ hay một số điện thoại mà tìm nhau? Anh chỉ biết người chị của mình là văn công hỏa tuyến. Khi vượt qua sông Bến Hải, vừa gặp lúc đoàn văn công biểu diễn phục vụ bộ đội. Anh ấy nghe tiếng hát biết ngay chị họ của mình. Đoàn vừa diễn xong, người thương binh chống nạng đến gặp ca sĩ mà hỏi: “Phải chị đó không? Em vừa trong nam ra đây rồi!”. Hai chị em ôm nhau khóc.

Ôi bao nhiêu ngày đằng đẵng xa quê, thương nhớ tái tê, tình đất nước cũng là tình máu thịt. Anh đi tìm chị, chị đi tìm làng. Tiếng hát vừa dứt thì bom địch dội xuống chiến trường, mảnh bom cắt phăng luôn cả nửa cây đàn nguyệt cổ mà chị cầm trên tay. “Không sao chị ạ! Hòa bình thống nhất, em sẽ làm cây đàn mới tặng chị”.

Ngoài bắc này, bác của anh có mấy người con trai đều đi bộ đội. Dù không dặn dò, không được giao nhiệm vụ, nhưng các anh luôn mong một ngày tìm được làng mình ở bên kia dòng Bến Hải. Rồi qua bao lần sinh tử, bao trận chiến đấu một mất một còn, chiếc xe tăng chở anh tiến vào thành phố Huế. Dân quân du kích ra đón bộ đội, những người mẹ già đưa cơm hến cho ăn. Anh hỏi đường về làng, nghe tiếng nói quê hương, tiếng của ông bà tổ tiên xưa vẫn vậy: “Anh cứ đi giải phóng Đà Nẵng, Sài Gòn, để Huế tụi em lo. Làng anh vẫn còn đó, lo chi”.

Trong khi sư đoàn của người anh đang tiến về quê hương thì cách đó mấy năm, gia đình nhận được tin anh đã hy sinh nên vẫn lập bàn thờ hương khói. Tin thắng trận rộn vang trên báo, cả nhà mở Báo Nhân Dân ra xem thì thấy trong đoàn xe tăng tiến vào giải phóng Đà Nẵng có anh của chàng. Bà anh nói: “Không biết nó đã gặp được cô dì chú bác trong đó chưa?”. Mọi người bảo: “Chắc chắn gặp được rồi”.

Anh của chàng ăn tô cơm hến rồi lên xe tăng tiến vào giải phóng Đà Nẵng, tiến vào Dinh Độc Lập trưa tháng Tư lịch sử. Bộ đội ta cắm lá cờ Mặt trận Giải phóng lên Dinh Độc Lập! Ôi, lá cờ bé nhỏ đã thấm bao mồ hôi và máu của những người anh, người chị qua bao trận đánh oai hùng.

Anh của chàng kể: “Xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập một lát đã thấy bà con tràn ra đem hoa quả cho bộ đội ăn dưới vườn cây, bảo: Mẹ chờ các con đã lâu lắm rồi!”.

***

Thế hệ chàng được gọi là may mắn vì được thừa hưởng một quê hương thống nhất và thanh bình. Nhưng việc học hành cũng chiếm hết tuổi thanh xuân và một hôm chàng tự hỏi: “Sao đến giờ mình vẫn chưa về làng?”.

Ngoảnh lại thời gian, từ khi tổ tiên vào Thuận Hóa mở mang bờ cõi, rồi ngược ra bắc những năm chiến tranh giờ quay trở lại, chẳng ngót nghét 500 năm rồi sao. Nhưng làng vẫn đó, 5 thế kỷ vẫn một tên làng ấy, giữ bao chứng tích thời gian.

Đón chàng có người anh trước là du kích xã, thương binh mấy lần. Anh nói: “Làng ta bị bom đạn cào bằng, chỉ còn lại mỗi cái tên. Sau năm 1975, hòa bình, mọi người mới trở về xây dựng lại nhà cửa, ruộng vườn”. Người anh lại dẫn ra nghĩa trang phủ bóng chiều, bảo: “Tất cả những người nằm kia, đều là họ hàng, hàng xóm láng giềng cả thôi”.

Trên mảnh vườn vẫn còn ngổn ngang những mảnh tường đổ và những viên đá kê cột của các tòa nhà cổ xưa nay không còn nữa. Bác của anh gõ mõ, đọc kinh, bảo: “Con về với ai vậy? Bạn gái à?”.

Chàng về quê cùng Huệ, một nhà văn cũng con em tập kết sinh trưởng ngoài bắc. Hai đứa thích văn chương và có lẽ cũng thích nhau. Giữa những đứa trẻ con em tập kết có một sợi dây vô hình nào đó về mặt tinh thần, kết nối chúng lại với nhau rất tự nhiên.

Huệ nói: “Quê cậu thật thanh bình, những dòng sông xanh biếc và sâu thẳm. Quê mợ thì sông nước tràn đầy phù sa, vườn cây xanh trái. Chúng ta trở về nơi đây và sẽ ở lại mãi mãi để viết văn”.

Bác chàng gọi nhỏ, bảo: “Con thích ai, yêu ai phải có ý kiến cô dì nhé. Không được tự tiện. Số là bác và người làng đã chuẩn bị cho con một đám rồi. Cô ấy cũng tuổi con, đã chờ con mấy năm rồi”.

Chao ơi! Về thăm làng ngay lần đầu tiên mà đã có người đợi chờ từ mấy năm sao?

Con lớn rồi. Con yêu ai là quyền con chứ. Ờ ờ! Biết rồi. Nhưng người ta cũng yêu con, dù chưa bao giờ gặp mặt, chỉ biết là người làng ta nhưng sinh trưởng học hành làm việc ngoài bắc sớm muộn sẽ về. Mà giờ thì con đã về.

Huệ nói: “Cậu hãy lựa chọn đi. Mợ và tình bạn vĩnh cửu của chúng ta, hoặc là quê hương ngàn năm của cậu”.

Chàng không biết nói gì hơn, chỉ biết gật gật đầu.

Người con gái quê chàng cũng khá xinh xắn, da trắng, tiếng hát rất trong trẻo. Cô giáo trẻ ấy khá ngại ngần khi gặp chàng, người mà cô được mai mối từ khi còn tóc đuôi gà. Rằng hãy ngoan đi, học giỏi đi, hát hay đi, cháu của ta ngoài bắc sắp vào rồi đấy!

“Chào anh Lệ. Em tên là Liên. Em nghe bác nói về anh từ khi em còn thơ dại. Nhưng em không nghĩ có ngày mình gặp nhau. Em không được may mắn lắm!”.

Nàng dẫn chàng đi thăm làng, vòng theo dòng sông nhỏ cò đậu trắng bờ: “Bến đò này được đặt bằng tên cố của anh đấy. Chính cố đã có công lập nên ngôi làng này và được thờ làm thành hoàng”. Liên dẫn anh tới giếng làng, nơi có cây cổ thụ cao vút: “Anh Lệ thấy phong cảnh này quen chứ? Cái giếng này là nghiên mực không bao giờ cạn, còn cây cổ thụ kia là cây bút mãi xanh tươi”.

Chàng trở về mảnh vườn xưa, nơi bác vẫn say sưa nói chuyện cùng nữ nhà văn trẻ.

Huệ bảo: “Anh đã quyết định chưa? Sẽ ở lại làng của anh hay tiếp tục cuộc hành trình văn chương bí ẩn và gian nan phía trước? À mà dù sao thì cũng sắp tới giờ ra ga tàu rồi nhé. Có gì hãy tâm sự hết với bác đi”.

Bác anh bảo: “Đi hay ở là tùy con. Dù sao con cũng đã lớn rồi. Quê hương mãi còn đó, chẳng mất đi đâu, điều quan trọng là con đừng bao giờ quên nguồn cội của mình”.

Chàng và Huệ lên đò qua dòng sông nhỏ xanh biếc. Con đò đi giữa những nghĩa trang nhiều lau sậy, qua ngôi trường mẫu giáo mới xây.

Huệ bảo: “Lần đầu về quê, cậu có cảm xúc thế nào? Có viết được gì không đấy?”.

Chàng lắc đầu: “Có lẽ chẳng viết được gì đâu mợ ạ. Đôi khi ta trải qua những cảm xúc không thốt nên lời và chẳng ngôn từ nào diễn đạt được trọn vẹn”.

Huệ nhìn về phía thành phố sáng rực ánh đèn còn chàng ngoái lại phía làng đang chìm trong sương chiều muộn. Chàng biết bên giếng làng vẫn còn đó đôi mắt đen biếc dõi theo anh.

***

Xuân năm nay, chàng về làng một mình. Làng anh vẫn xao xác những hàng tre và đàn cò vạc sớm hôm cãi nhau chí chóe. Dòng nước xanh biếc âm thầm lặng lẽ nuôi dưỡng những cánh đồng gạo thơm cả vào ca dao.

Chàng thắp nén hương cho bác và nhìn chiếc mõ gỗ chuông đồng mòn vẹt tháng năm bác để lại. Anh không biết trên ban thờ, bác còn nhớ cô nhà văn trẻ năm xưa ghé thăm làng hay không? Huệ vẫn thế, vẫn lạc trong thế giới thơ văn của cô với những vui buồn của một đứa con từ mối tình tập kết. Đã lâu lâu lắm rồi, anh không gặp lại nàng và họ chỉ hiểu nhau qua những trang sách thi thoảng mới được in thôi.

Chàng cũng đi qua ngôi trường mà Liên vẫn dạy ở đó chẳng đi đâu. Trong đám trẻ bi bô đánh vần có cả con của Liên.

Bọn trẻ đọc những bài ca dao mà từ ngàn xưa truyền lại đến bà ngoại, đến mẹ và giờ là đến lớp lá lớp mầm.

Chàng đứng tần ngần ngoài cổng trường, không biết nên bước vào sân tìm gặp cô giáo Liên hay không?

Chàng sợ cái cảnh Liên ngơ ngác: Anh gặp ai? Anh và em có quen nhau à? Em chưa bao giờ quen người nào ở xa.

Chàng cũng không thích cái cảnh bùi ngùi và giàu cảm xúc: Liên đây! Em vẫn chờ anh, từ ngày ấy anh Lệ ạ. Em đã cố quên anh, nhưng vào mùa xuân thì lại nhớ.

“Ô! Cháu về khi nào? Sao lại đi bộ? Không báo chú lên đón”. Về làng thì không cần báo trước chú ơi.

Người chú là một lương y ngày ngày bốc thuốc cứu người nhưng cũng vừa trải qua cơn bạo bệnh. “Bệnh tật không chừa một ai, thời gian đi mà không trở lại, sức khỏe cũng thế thôi. Sống trên đời quý nhất cái tình cháu ạ”.

Người chú tóc đã bạc phơ mà chàng cũng không còn trẻ nữa. Hai người đi trên con đường làng, kể về những chuyến đò ngang năm xưa cập bến trước cửa nhà.

Người chú bảo: “Xưa chú đi du kích, nhớ làng quá tìm về nằm ngoài nghĩa trang ngó vào, thấy những cây hàng tre, thấy giếng làng đó, đỡ nhớ, đêm tối lại vào chiến khu. Dọc đường đi, qua đồn bốt, địch nghe tiếng động lạ lập tức bắn súng như mưa. Mình còn sống, còn đi, cứ đi mãi cho đến khi hòa bình được về làng thì thôi”.

“Chồng Liên làm gì chú ơi?”. Bất giác chàng nói bâng quơ.

Chú lắc đầu: “Ơ! Nó lấy chồng bao giờ! Là cô nuôi dạy trẻ mồ côi cháu ạ”.

Chú lại bảo: “Hết chiến tranh nhưng vẫn còn dịch bệnh nên vẫn còn những đứa trẻ mồ côi cần được dạy dỗ chăm sóc. Trẻ con, đứa nào chẳng dễ thương như đứa nào. Chúng lẵng nhẵng theo mẹ Liên tối ngày”.

Ăn cơm xong, chú bảo: “Con thích đi xe hay đi đò lên thành phố? Xưa chú hoạt động đều bằng đò”.

“Vậy chú gọi cho con một chuyến đò ngang”.

Người lái đò nom khá kỳ dị. Trời đã chiều tối mà cô vẫn đội nón, đeo kính, đeo cả khăn che mặt, đeo cả bao tay bịt kín không thấy gì. Hừm, chỉ những người giao liên xưa đưa đón cán bộ bí mật mới ăn mặc kín bưng thế thôi.

Sương mù đã bao phủ và những con cò con vạc nhao nhác theo những mái chèo. Tiếng chèo chậm rãi, phảng phất đôi hạt mưa xuân.

Chàng ngồi phía trước, nhìn vào thành phố đang chăng đèn rực rỡ trên chiếc cầu bắc qua sông. Người chèo đò ngồi sau không nói gì, vẫn tủm tỉm cười trong bóng tối.

Chàng quay lại, thấy như có hơi ấm sau lưng mình: “Cô lái đò cũng người làng ta đấy chứ?”.

Người lái đò định trả lời, rồi lại thôi. Cô gật đầu rất nhanh, rồi vội nghiêng chiếc nón bài thơ đã cũ, mải miết chèo đưa khách qua sông.

LỜI BÌNH CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN QUANG THIỀU

Bất cứ ai nói đến từ “LÀNG” đều chạm đến tầng sâu nhất trong tâm hồn tôi. Một điều gì đó vừa cụ thể, vừa mơ hồ, vừa thiêng liêng, vừa bí ẩn thống lĩnh tôi.

Ðôi tuần tôi vẫn về làng. Nhưng khi đọc truyện ngắn này của Trần Nguyễn Anh, tôi muốn chạy ngay về làng để chứng thực rằng: Làng tôi vẫn ở đó, tôi vẫn còn nhớ đường về làng, mọi thứ của làng vẫn nguyên vẹn cho tôi và chờ tôi. Nhưng cũng tràn ngập trong tôi một nỗi hoảng sợ nếu một ngày nào đó tôi trở về mà không tìm được làng nữa, chỉ là một khoảng trống mênh mông vô định, hay một ngày nào đó thức dậy tôi không thể tìm thấy đường về làng hoặc không có một ký ức gì về nơi chốn đó.

Làng tôi vẫn đấy mà đọc xong truyện ngắn này lại cứ nghĩ tôi vừa tìm được làng sau một thời gian mình đã đánh mất. Cám ơn nhà văn Trần Nguyễn Anh mang đến cho tôi một giấc mộng vừa sợ hãi lại vừa hạnh phúc.

Có thể bạn quan tâm

Minh họa | ĐẶNG TIẾN

Bí mật quê hương

Lê là một phóng viên trẻ mới ra trường, được phân công theo dõi miền núi. Hàng tháng, anh bắt xe khách lên vùng cao viết bài. Những chuyến xe chở đầy hàng hóa miền xuôi và khi trở về sẽ ngổn ngang sản phẩm núi rừng.

Minh họa | NGUYỄN NGHĨA CƯƠNG

Ánh sáng huyền

Làng nằm trọn trong thung lũng, tách biệt với các làng khác trong xã, bao quanh là những ngọn núi, nhà dân nằm rải rác chung quanh cái vòng cung tầm hơn hai trăm hộ. Muốn ra khỏi làng chỉ có một con đường duy nhất là vòng lên đèo hướng ngọn núi phía Tây.

Minh họa | BÙI TIẾN TUẤN

Xa mãi cao nguyên

Nơi Lam làm việc là một trung tâm cứu hộ động vật hoang dã nằm biệt lập trên cao nguyên, sóng điện thoại chập chờn còn đi đường bộ từ thị trấn vào phải mất cả ngày mới tới. Đêm hôm đó, cô nhận được cuộc gọi từ mẹ khi trời đã rất khuya.

Minh họa | Lê Anh Vân

Sống lại những ngày xưa cũ

Tôi trở lại với nghề may sau bốn năm đứt gãy - bốn năm mà tôi vẫn thường gọi là “khoảng mù của đời mình”. Khoảng thời gian ấy, tôi mất tất cả: Công việc, gia đình, sức khỏe... và cả niềm tin.

Minh họa | TRẦN XUÂN BÌNH

Cho tôi về nhà

Cảm giác râm ran như có con gì trườn bò khắp khoang bụng, lúc nổi cục bên phải, lúc nó lại phập phồng sang trái.
Minh họa | ĐẶNG TIẾN

Lòng tốt

Ánh mắt đứa nhỏ hiền queo như nắng buổi sớm, trong vắt và ấm. Vừa gợi người ta nhớ về những yêu thương xa vắng, vừa khiến người ta muốn đưa tay đón lấy.
Minh họa: VŨ ĐÌNH TUẤN

Mưa sao băng

Ngàn ngàn lớp lớp bóng mây trên bầu trời / Vụt qua một thiên thạch nhỏ / Đẹp tựa mũi tên vàng
Minh họa | HẢI KIÊN

Bông tuyết hạnh phúc

Từ trước Noel, tuyết đã rơi trắng những đỉnh núi. Nhiệt độ vẫn xuống thấp nên tuyết cứ ở mãi đấy, không thể tan nổi, cho đến tận tết. Vì thế mà khách lên Sa Pa rất đông. Dòng xe nối nhau từ từ trôi ngược đèo Hoàng Liên.
Minh họa | PHẠM HÀ HẢI

Giọt mồ hôi trong xanh

- Em cho anh gửi giùm một người chú trong nhà em. Chú bệnh lao, ở nhà thuốc sợ lây cho những bệnh nhân khác. Đêm đêm em dòm ngó ổng giùm anh nghe.
Minh họa | NGUYỄN QUANG THIỀU

Dây cháy chậm

Buổi sáng khi đang ở nơi xa, tôi bỗng nhận được một tin nhắn. Thoạt nhiên, tôi định xóa vì tin được gửi từ số điện thoại lạ, bây giờ tin nhắn rác đầy rẫy ra, khéo lại bị lừa. Nhưng rồi đập vào mắt dòng chữ khiến tôi không thể hững hờ.
Minh họa | VŨ ĐÌNH TUẤN

Đầu thú

Tôi đến đồn công an xin đầu thú. Tôi nói với những người ở đó là tôi đã phạm tội nay ra đầu thú rồi chờ đợi cho đến khi có người lấy lời khai.
Minh họa | ĐẶNG TIẾN

Những vệt bụi hoàng thổ

1. Giữa cái bàn đá rộng chừng ba mét, dài bảy mét, là một sa bàn biển. Thấy rõ hình ảnh và ghi chú nơi con tàu Titanic bị chìm nằm sâu dưới đáy biển ở độ sâu 3.800 mét. Xác tàu nằm ngẩn ngơ dưới đáy biển, cũ nát và cô độc. Một dấu hỏi chấm được đánh dấu ở khoảng sâu 2.000 mét, có nghĩa tàu thám hiểm Titan Xám đến khoảng ấy đã mất tích, không còn liên lạc với tàu mẹ.
Minh họa | PHẠM AN HẢI

Hoa suối

Cái thuở hai mươi người ta tràn trề sinh lực nhưng lại thiếu sự chín chắn, nói cho cùng thì ít người tính toán được đường đời về sau và tôi cũng vậy.
Minh họa | LÊ ANH VÂN

Ấm áp như nước

Trời mưa đã mấy hôm liền không dứt. Mưa phùn dày hạt. Không khí ẩm ướt rất khó chịu. Quần áo cất trong hòm lấy ra vẫn thấy ẩm ẩm.
Minh họa | VŨ ĐÌNH TUẤN

Thầy

Tôi chờ chuyến xe cuối ngày để về thành phố. Tháng mười một, trời mưa như khát, hành khách bất tiện trong việc đón xe, nhà xe cũng không mặn mà gì đến hành khách.
Minh họa | NGUYỄN THỊ HIỀN

Tiếng gà tinh sương

Ở cái tuổi sắp về hưu bỗng dưng tính nết suy nghĩ của Nhuận thay đổi khác thường. Chẳng biết khi nào, anh trở nên bảo thủ đến mức ích kỷ, độc đoán tới mức bản thân cũng không chấp nhận được, nhưng ở khía cạnh nào đó anh lại coi trọng tình cảm hơn cả mọi tính toán logic và lý lẽ thông thường. Hay như ngọn nến sắp tắt, con người ta phải sáng lên một lần với giấc mơ bừng sáng, thức tỉnh?
Minh họa: ĐÀO HẢI PHONG

Giữa vật chất này

Bà nhớ vé tàu được gửi tới một xế trưa tháng Bảy, giữa hai cơn giông khô làm đổ tháo lá trong vườn, ổ chim rơi ngay giữa sân, một con dơi quờ quạng bay lạc vào nhà chính. Tay bưu tá giắt phong thư lên khe rào, cố định nó bằng cách nhồi một nhánh trang leo chẳng may rũ xuống gần đó. Hành động thô lỗ nọ làm rụng vài chùm bông đang độ.
Minh họa: HẢI KIÊN

Quyền lựa chọn

“Đường sáng sủa không chịu đi thì chỉ có cắm đầu vô bãi phân thôi, nghe rõ chưa Lành...”.
Minh họa | VŨ ĐÌNH TUẤN

Chợ ký ức

- Chạng vạng chiều hôm nọ đi ngang qua bãi Mọ Ho, tôi thấy một con ma cụt đầu ngồi khóc.
Minh họa | Hải Kiên

Thị trấn ngủ mưa

Tôi nói với T, em nhất định phải rời khỏi thị trấn vùng cao quạnh hiu này. Nỗi cô đơn đang gặm nhấm trái tim em, khiến em mòn mỏi nhớ thành phố phồn hoa, lấp lánh. T vẫn im lặng. Chúng tôi đứng bên hiên ký túc xá, nhìn màn mưa mịt mùng vây kín, nhấn chìm cả thị trấn trong một thứ sắc bạc hoang miên. Ngỡ đặt chân vào mưa là chìm lút trong khoảng không gian mơ hồ ảo giác.
Minh họa: Lê Thiết Cương

Những bông hoa nở lúc trời chiều

Cuối tuần tôi hay đưa con ra khỏi thành phố. Đi dọc theo triền đê, xuôi về phía Hưng Yên. Không xa lắm, chỉ tầm hơn chục kilomet thôi thì đã sang hẳn một không gian khác. Những vườn cây ăn quả, rau, những thửa ruộng đầy hoa và cây cảnh, những nếp nhà thấp và ngõ xóm chằng chịt, ngay cả khúc sông cũng khác. Thật lạ là vẫn dòng sông chảy bên ngoài đê ấy, về đến đây nó như thể có ngay một diện mạo mới, khoáng đạt hơn, tự do hơn, reo vui hơn...