Lang thang... “rừng ma” Kông Chro

Men theo bờ sông Ba lững lờ trôi cuối miền Kông Chro, tôi tìm về vùng đất phía tây tỉnh Gia Lai, nơi “còn đậm chất Ba Na nhất trong các vùng Ba Na”, như lời nhiều nhà nghiên cứu văn hóa. Quả vậy, chỉ cách trung tâm thị trấn Kông Chro chừng bốn cây số mà những ngôi làng người Ba Na dòng Bờ Nơm như Plei Yơng, Plei Pyang vẫn giữ khá nguyên vẹn sắc thái cổ truyền. Trong đó, có những nghĩa địa nhà mồ và những tập tục tiễn đưa linh hồn chứa đầy bí ẩn mà tôi đang kể… 

Các nghệ nhân không chú trọng sáng tạo nghệ thuật nhưng lại tạo nên những tác phẩm điêu khắc đầy biểu cảm. Ảnh tư liệu
Các nghệ nhân không chú trọng sáng tạo nghệ thuật nhưng lại tạo nên những tác phẩm điêu khắc đầy biểu cảm. Ảnh tư liệu

Kỳ 1: Mớtbơxát, cuộc chia tay vĩnh viễn

Khi đến với Kông Chro rồi, tôi cứ như bị thôi thúc ước muốn được mãi mãi làm người lữ hành say mê với đa dạng sắc mầu thiểu số. Tôi muốn được làm khách trong những ngôi nhà sàn của cư dân tộc người nói tiếng Môn-Khơmer nép mình an nhiên trông về hướng nhà rông với bộ sườn nhà chuốt cong như cặp ngà voi, dáng thấp và dài đặc trưng giữa buôn. Tôi cũng muốn được cởi mở những câu chuyện không dứt với những người đàn ông, đàn bà Ba Na hiền lành mà bặt thiệp ngẫu nhiên gặp trên đường, lúc lân la bên khung dệt hay sà vào bữa cơm rau rừng, cá suối… 

1/Và đặc biệt lần này, tôi đã “lạc vào rừng ma” của làng Plei Pyang và làng Plei Yơng như là một cách trải nghiệm và cảm nhận rõ hơn cái nghĩa lý “chết là hết” của hành trình từ cõi sống đến cõi A Tâu (linh hồn) của đồng bào Ba Na, tộc người còn lưu giữ nhiều ký ức văn hóa vô giá giữa miền đại ngàn cao nguyên thăm thẳm.

Giữa trưa nắng gắt, tôi đứng bên này bờ con sông Ba đang trôi mà người Ba Na vùng Kông Chro này gọi là dòng Đắk Kroong, nhìn về khu nhà mồ của Plei Pyang lấp lóa trong một cánh rừng khộp lúp xúp. Cậu thanh niên Đinh Thương chạy xe máy qua, tôi ngoắt lại hỏi chuyện: “Em có người thân nào được táng trong khu nhà mồ đó không?”. “Có chứ!”. “Là ai?”. “Mới nhất là bố em, nhưng mà làm lễ bỏ mả rồi mà!”. “Vậy sau lễ bỏ mả, em có ra thăm mộ bố lần nào không?”. “Bỏ rồi thôi mà! Bố em mất năm 2010, làm bỏ mả năm 2013, gần 10 năm rồi mẹ con em không quay lại đó”. Tôi giả hỏi: “Vậy bây giờ em có đi cùng anh ra thăm mộ bố hay nói tên bố để anh chuyển lời thăm viếng của em?”. 

Đến lúc này thì Đinh Thương, chàng trai gần 30 tuổi mạnh khỏe, đẹp trai bỗng trố mắt lên và nổ máy xe phóng đi chỉ kịp chào tôi lí nhí. Tôi ngầm hiểu là cậu chàng sợ ma đuổi theo hay có thể là cậu nghĩ là tôi không biết gì về phong tục của người Ba Na. Thật ra, từ lâu tôi đã không lạ lùng gì và từng tham dự nhiều lần nghi lễ Mớtbơxát (lễ bỏ mả) ở tộc người Ba Na của Thương, cũng như các tộc người bản địa anh em khác trên miền đất Tây Nguyên đầy bí ẩn này.  

Tôi mỉm cười nhìn theo bóng Đinh Thương đang mờ xa dần và men theo lối mòn nhỏ vào rừng rồi thận trọng từng bước chân đến khu nhà mồ bên triền sông Ba, nơi cách khá xa làng Plei Pyang. Nhìn từ xa, khu nhà mồ thấp thoáng trông không khác một ngôi làng đa sắc. Cũng những mái nhà bốn mái lợp tôn hay lợp lá tranh nho nhỏ, những cây nêu K’lao (cây nêu làm riêng cho nhà mồ) sặc sỡ, những bức tượng gỗ trầm mặc. “Quy hoạch” nghĩa trang này trông cũng khá bắt mắt, quan sát nhanh thì thấy dư địa còn nhiều. Vậy là, chỉ cách vài trăm bước chân, tôi đã trải nghiệm từ không gian của sự sống đến không gian u uẩn, phong nhiêu của thế giới linh hồn. Tôi được cảm nhận phần nào vòng đời của một con người Ba Na từ khi cất tiếng khóc chào đời, được một người phụ nữ quyền lực trong làng thổi hơi thở vào tai để trao linh hồn trong lễ thổi tai đến cuộc ra đi vĩnh viễn trong lễ bỏ mả, trả cả phần hồn lẫn thân xác về với rừng xanh ở miền quên lãng...

2/Trong thế giới sinh tồn Tây Nguyên, chết là hết thật sự, là mất hẳn, tiêu tan hẳn. Người chết được chôn cất tử tế, được chia của mang đi như khi họ từng sống. Chỉ có khác là sau nghi lễ bỏ mả là giữa người sống và người chết có một cuộc chia tay vĩnh viễn, chia tay không hề để lại chút gì vương vấn. Người chết dù có là ai trên thế gian này thì Mớtbơxát đã mang thể phách họ đi và trao gửi cho mênh mông đại ngàn, hoàn toàn mất tăm mất tích… 

Anh Đinh Văn Hnok, Phó Bí thư Đảng ủy thị trấn Kông Chro, một người con của tộc người Ba Na ở làng Plei Yơng, nói với tôi rằng: “Khi một người Ba Na chết, người ấy sẽ được chôn trong một ngôi mộ tạm. Trong quan niệm của đồng bào mình là người chết ấy chưa thật sự đã rời dương gian. Hằng ngày, người thân trong gia đình vẫn mang cơm nước, điếu hút thuốc, bánh trái và cả rượu ra mộ để “nuôi” người chết như đối với một người còn sống, còn tham gia mọi việc. Họ vẫn ngồi bên mộ trò chuyện thân mật với người đã mất, họ tâm sự những gì mới xảy ra trong nhà, trong buôn như là người chết đang là sống vậy”. 

Vẫn theo lời Hnok, cũng trong khoảng thời gian đó, người ta thiết kế và làm một ngôi nhà mồ làm sao cho thật đẹp nhất theo điều kiện kinh tế của gia đình, tạc những bức tượng gỗ nhà mồ theo suy tưởng, lựa theo ý của “ma” và chuẩn bị mọi công việc cần thiết cho lễ bỏ mả, thường diễn ra vào dịp Tết “đậy nắp bồ lúa”, có nơi gọi là Ning Nông, có nơi gọi là Nhu Lirbong. Lễ bỏ mả là nghi lễ và cũng là lễ hội cực kỳ quan trọng trong chuỗi nghi lễ vòng đời, không chỉ gia đình, họ hàng mà cả buôn làng, cả những làng kế bên cũng kéo đến tham gia. Cái “nghĩa tử là nghĩa tận” đến lúc này mới được thể hiện, vì đây là cuộc tiễn đưa mãi mãi một người thân, một người đồng tộc về cõi xa xôi nghìn trùng. Người ta khóc tiếc thương, người ta nhớ, người ta kể lể những kỷ niệm về người đã khuất. Nhưng quan trọng hơn là người ta uống rượu cần ché lớn ché to chảy tuôn như suối; người ta ăn trâu, ăn bò suốt năm ngày bốn đêm; người ta chơi chiêng, đánh trống, thổi kèn, múa xoang và hát dân ca tràn đầy cảm hứng nên không hề mệt mỏi.

Bà A Nhét kể cho tôi nghe, đầu năm vừa rồi làng Plei Yơng mới làm Mớtbơxát cho Đinh Văn Sâm, một chàng trai trẻ không may bị mất vì tai nạn giao thông. “Nhà nó thương thằng con, làm lễ bỏ mả to lắm, dân Plei Yơng và các làng cùng kéo đến vui lắm. Ăn hết một trâu, hai bò, chia của cho nó cũng nhiều. Nhà nó có nhiều đất, mẹ nó chia một phần cho nó và quy đất ra tiền để làm lễ bỏ mả to cho thằng Sâm. Buôn làng ăn uống, vui chơi suốt mấy ngày, từ ngoài nhà mồ rồi kéo về nhà, rồi còn về ăn uống, múa hát ở nhà rông nữa. Cái xe máy khi còn sống là của nó, khi bỏ mả cũng chia cho nó đấy!”. 

Tôi đã ra nghĩa địa, và quả thật, ngay phía sau đầu mộ của Đinh Văn Sâm là chiếc honda Super Dream được cột chặt ở đấy cùng với những tấm xương đầu trâu, đầu bò từng bị giết ăn trong lễ bỏ mả nay được treo lủng lẳng hai bên đầu mộ. Chén bát, xoong nồi, cái mũ bảo hiểm, cái điện thoại “cục gạch” và mấy vật dụng Sâm dùng lúc còn sống cũng được để đấy. Người thân còn trồng thêm bên mộ Sâm những cây chuối, cây dứa để “về bên kia” anh có thêm cây trái để ăn hay là có cái cây giống để trồng tỉa mà “sống” lâu dài ở “miền đất mới”… 

Thế đấy, chỉ sau khi làm lễ bỏ mả thì người sống mới an tâm rằng, họ đã làm tròn bổn phận với người đã khuất. Với lẽ đó, bỏ mả không buồn mà là lễ vui của người Tây Nguyên, bởi vì đây là cuộc tiễn đưa linh hồn người chết tái sinh một cuộc đời mới ở một thế giới khác. Cũng từ giờ phút này, con ma không còn được phép nhớ về cõi sống, không còn lang thang lối về buôn làng, vĩnh viễn quên đường đi lên bảy bậc cầu thang nhà mình. Con ma hoàn toàn về với rừng xanh, núi đỏ, nơi từ đó bào thai hoài sinh cho họ làm người một quãng ngắn trong cõi miên thường. Dù tiếc nuối nhưng ma phải ra đi trong một cuộc hành trình tâm linh về thế giới A Tâu xa thẳm...     

(Còn nữa)